Tiến về phía trước

“Hầu hết những người chạy bộ chạy không phải vì họ muốn sống lâu hơn, mà vì họ muốn sống trọn vẹn” – Haruki Murakami

Tôi đang tạo một playlist nhạc để nghe khi chạy bộ.

Như bạn có thể đoán được, vì được truyền cảm hứng rất nhiều từ ông nên tôi cho vào list một số âm nhạc mà Murakami ưa thích. Rolling Stones, The Lovin’ Spoonful, The Beach Boys, bạn biết đấy, những ban nhạc lỗi thời thú vị của thập niên 60 – thời kỳ mà Murakami miêu tả trong Cuộc săn cừu hoang là “không gian tràn đầy nhựa sống, cho dù mọi thứ dường như đang ở bên bờ vực sụp đổ, chỉ đợi một cú hích mạnh nữa thôi”.

Norwegian Wood và Pretend cố nhiên là hai bài quan trọng phải có. Rừng Na Uy và Phía Nam biên giới là hai trong những tiểu thuyết đầu tiên tôi đọc của Murakami, và rất nhanh trở nên vô cùng gắn bó đối với tuổi thanh niên của tôi. Đó là những tiểu thuyết giúp ta trở thành một người đàn ông tốt đẹp hơn, thực thụ hơn, qua cái cách chấp nhận con người mình. Lắng nghe những giai điệu đại diện của chúng luôn mang lại cho tôi một sự an ủi dịu dàng, và quan trọng hơn, chúng không ngừng thúc đẩy ta về phía trước – giống như chạy bộ.

Murakami nói ông nghe nhạc khi chạy bộ và chạy theo nhịp điệu của chúng. Điều này có lẽ hơi cường điệu một chút hoặc mang tính biểu tượng là chính bởi tôi không hình dung ra được ông giữ nhịp điệu đều đặn của marathon như thế nào khi nghe cùng lúc cả Jazz, nhạc cổ điển và Rock nhỉ.

Tuy vậy, tôi vẫn cố gắng nghe thật nhiều âm nhạc khi chạy bộ. Điều này giúp ta tập trung vào thế giới riêng của ta và đôi khi là cách để cố quên đi cái đau đớn mệt mỏi của guồng chân chạy trong những kilomet cuối. Một chiến thuật của Murakami để kéo dài cự ly đó là tự nhủ với bản thân ta là một cỗ máy và vì vậy việc vận hành của hai bàn chân chỉ là một hành vi vô thức. Cố nhiên để hỗ trợ cho việc đó ông sẽ hướng sự tập trung vào việc khác, như nghe nhạc chẳng hạn.

Nhưng bài hát nào nằm đầu tiên trong danh sách nhạc chạy bộ của tôi?

Trong hiện tại thì tôi có hai bài, Lemon Tree của Fools Garden và Ob-La-Di, Ob-La-Da của The Beatles. Đây đều là những phát hiện mới của tôi gần đây khi tôi để cho Youtube Music chơi nhạc ngẫu nhiên theo thuật toán của họ.

***

Thứ lỗi cho tôi nếu tôi không biết đến Fools Garden từ trước. Giai đoạn ra đời và thành danh của ban nhạc Đức này nằm đúng vào những năm đầu đời của tôi, khi tôi còn chưa biết nghe nhạc. Nhưng kể cả sau này khi tôi lớn lên một chút thì Fools Garden cũng đã nhanh chóng đi qua những năm tháng đỉnh cao của họ trước cả khi tôi có thể biết tới. Về danh nghĩa thì dường như ban nhạc vẫn đang hoạt động cho đến tận ngày nay, nhưng rất nhiều người đánh giá họ một dạng ban nhạc có một bản hit duy nhất, chính là Lemon Tree – nằm trong đĩa đơn Dish of the Day đã phát hành từ tận năm 1995, đã quá xa rồi.

Đó là một nhóm nhạc sinh viên từ khởi thuỷ, với hai thành viên sáng lập cốt cán đã xoay xở qua nhiều thăng trầm để duy trì hoạt động của nhóm. Đã có nhiều thành viên liên tục đến và đi, khiến lực lượng thường xuyên của ban nhạc không hề ổn định qua từng giai đoạn. Bằng cách nào đó họ vẫn cho ra đời được một chục album và giành được hơn một chục giải thưởng âm nhạc tại Đức. Nhưng đáp lại những nỗ lực duy trì suốt nhiều năm như vậy khó có thể nói là họ quá thành công về mặt thương mại. Fools Garden giống như một cơn sóng trào, nhanh chóng tan vào biển cả mà không thể tạo thành một dòng hải lưu riêng cho mình.

Có lẽ họ không đủ may mắn, hoặc không đủ tài năng, hoặc đơn giản là những năm 90 ngẫu nhiên lại là giai đoạn cực thịnh của phong trào âm nhạc với quá nhiều nhóm nhạc lừng danh khác nữa. Tuy vậy khi nghe âm nhạc của họ, tôi vẫn nhận ra cái tinh thần sảng khoái và nhiệt huyết của tuổi trẻ mà ban nhạc mang lại. Những tháng năm rực rỡ mà ta nghĩ ta có nhiều điều để nói với, và nhiều điều để làm cho thế giới này. Khi nghe âm nhạc của họ, tôi không thể không hình dung ra hình ảnh hai người nghệ sĩ trẻ, Peter và Volker, đã háo hức viết những dòng nhạc đầu tiên chứa đựng những triết lý và thông điệp của mình, và nôn nóng tập luyện cùng nhóm nhạc cho những buổi trình diễn khởi đầu đầy hứa hẹn.

Quả thực thì Fools Garden đã từng tương đối thành công, và Lemon Tree là một bài hát nhanh và mạnh mẽ.

***

Ob-la-di Ob-la-da là một bài hát của nhóm The Beatles. Ta không thể thực sự biết cho rõ ngọn ngành câu chuyện xung quanh những người được đồn đoán có liên quan đến bài hát này. Kể cả việc John Lennon có không thích bài hát và nảy sinh tranh cãi với Paul McCartney, dường như không hẳn là chính xác.

Bài hát xuất hiện trong album The Beatles xuất bản năm 1968, và là một trong những bài hát nổi bật nhất. Vì vướng phải một số chỉ trích và lùm xùm xung quanh vấn đề tác quyền về ý tưởng của cụm từ “Ob-la-di Ob-la-da”, ban nhạc quyết định không phổ biến bài hát ở tất cả các thị trường và hạn chế trình diễn trực tiếp. Điều này không ngăn được việc Ob-la-di Ob-la-da, vốn dĩ là một bài hát hay với phần tiết tấu nhanh, mạnh mang tính thúc giục rất đặc trưng của âm nhạc những năm 60, được yêu thích và trở thành đề tài hát lại (cover) của nhiều nhóm nhạc khác. Cuối cùng thì kể từ năm 2009, Paul đã trình diễn bài hát thường xuyên trên sân khấu.

Bạn nhất định phải xem Paul trình diễn nó trực tiếp trên sân khấu, để thấy âm nhạc có thể tự do đến mức nào, và qua đó, có thể tuyệt vời đến mức nào. Đó là thứ âm nhạc trẻ trung không có tuổi. Khi Paul trình diễn nó, kể cả khi ông đã hơi già, ta đều thấy cái nhựa sống của chàng thanh niên ôm đàn nghêu ngao hát trở lại, căng tràn, và thúc giục ta hãy sống đi, hãy sống cho trọn vẹn.

***

Hai bài hát đó, theo thứ tự lần lượt nằm trước tiên trong danh sách nhạc nghe khi chạy bộ của tôi. Những sải chân đầu tiên của tôi khi chạm xuống đường tương ứng với những nốt nhạc đầu tiên được cất lên, nhanh chóng hoà vào với bước chạy của tôi và giúp tôi hình thành một nhịp điệu cần thiết để bắt đầu duy trì cự ly chạy đường dài.

Trong đầu tôi là tiếng hát thúc giục mạnh mẽ. Nhịp thở của tôi ổn định.

Tôi nhanh chóng tiến về phía trước.

May 5, 2023  Leave a comment

Niềm vui chạy bộ

Như đã nói hôm trước, mục đích chạy bộ của tôi là hy vọng một ngày nào đó có thể làm gương cho con trai tôi về tập thể thao, để từ đó giúp nó cải thiện thể chất khi lớn lên. Rèn luyện thể thao cũng liên quan rất nhiều đến một khía cạnh đáng quý khác, đó là rèn luyện ý chí. Có ý chí là rất quan trọng.

Tôi muốn con trai tôi là một người có ý chí.

***

Vì mục đích như vậy, tôi và vợ cố gắng xỏ giày và chạy/đi bộ nhiều lần mỗi tuần, không nghỉ tuần nào, trong suýt soát hai tháng qua. Không phải ngày nào cũng chạy, có ngày tôi và vợ đi bộ với nhau nếu cảm thấy không đủ khoẻ để chạy. Miễn sao mỗi ngày chạy/đi bộ tối thiểu 10,000 bước theo mục tiêu là được.

Tôi vẫn nhớ buổi chạy chính thức đầu tiên vào đúng sáng ngày 01/3, tôi và vợ lên Bờ Hồ, vừa để hưởng cái không khí vừa thử bắt đầu ở một địa điểm điển hình xem sao. Cố nhiên, cứ chạy được vài trăm mét là hai đứa phải dừng, như bất kỳ người bắt đầu nào. Nhưng nếu ta duy trì thói quen ấy đều đặn hàng tuần thì ta sẽ dần chạy được xa hơn và xa hơn nữa.

Và hôm nay, ngày 25/4 tôi vừa chinh phục được mốc 10 kilomet (10K) với pace 7:00, đạt được chính xác mục tiêu cự ly và nhịp độ mà tôi đề ra khi bắt đầu. Cứ cho là sau khoảng 3 tuần khi đạt được mốc 5 kilomet (5K) từ lần trước đi.

Cự ly 10K đầu tiên

So về thành tích phổ thông thì không có gì đáng nói – ở ngoài kia có đầy rẫy những người chạy bộ kiệt xuất vượt xa tôi nhiều. Về khía cạnh cá nhân, tôi nhẹ nhõm vì cũng chạm tới cái mình muốn. Nói chung đối với tôi thì không dễ dàng gì và đầy lần mình muốn bỏ cuộc cho rồi; đằng nào thì tôi có phải được thiên phú cho môn thể thao này đâu, rất nhiều lần tôi nghĩ như vậy, và thấy nản vì tiến bộ quá chậm, nhưng có những giá trị tinh thần vui vẻ đã giữ tôi lại với việc xỏ giày ra ngoài đường mỗi ngày. Hôm nay khi đạt được thành tích nho nhỏ này, tôi bỗng muốn chia sẻ một chút về nó – những suy nghĩ và niềm vui xung quanh việc chạy bộ.

***

Vì tôi vẫn duy trì việc tập thể hình bên cạnh chạy bộ, hệ quả là vợ tôi nhận xét tôi trông gọn đi một chút. Tôi từng tập thể hình bốn đến năm buổi một tuần. Giờ đây khi thêm môn chạy bộ, tôi tập tạ ít lại cả về tần suất và khối lượng, cố gắng duy trì hai đến ba buổi một tuần. Đôi khi tôi tập hai môn trong cùng một ngày nếu thấy có thể – chính xác như ngày hôm nay, một ngày khá đặc biệt khi mùa hè Hà Nội vào cuối tháng 4 bỗng chuyển lạnh dữ dội như níu kéo lần cuối cơn Đông muộn tưởng đã trốn thoát từ muôn kiếp trước, khiến người Hà Nội xôn xao lên hết cả – khi tôi tập tạ vào buổi sáng và chiều thì xỏ giày đi chạy.

Tập hai bộ môn cùng lúc cho phép tôi có cái nhìn mới mẻ về thể thao. Riêng việc hoạch định lại chương trình tập luyện để hoà hợp về mặt thời gian, thể chất và kết quả của hai bộ môn đã là một sự nghiên cứu và học hỏi thú vị. Cố nhiên tôi không muốn đánh mất từng ấy cơ bắp thể hình đã xây dựng nhiều năm. Tiêu chuẩn của bản thân tôi là sẽ làm sao để trông mình không gầy đét đi như một người chạy bộ đường dài điển hình, mà duy trì hình thể của một người tập thể hình chạy bộ.

Tôi cũng nhận ra tuy tôi yếu sức bền và mỗi cuộc chạy gần giống một cuộc hành xác, nhưng tôi không gặp quá nhiều vấn đề thường thấy của một người ít vận động bắt đầu hành trình thể thao. Điều này hẳn đến từ việc cơ thể tôi đã tích luỹ được một chút nền tảng thể chất qua nhiều năm tập luyện. Do đã có thói quen dãn cơ trước và sau khi tập, tôi không gặp triệu chứng mỏi cơ hay chuột rút khi chạy dài hơi. Đôi khi tôi cho phép mình chỉ khởi động qua loa vài phút là bắt đầu chạy ngay vì tự tin rằng cơ thể mình lúc nào cũng sẵn sàng để vận động. Cố nhiên điều này không đáng khuyến khích lắm vì ta không thể nói trước được điều gì trong thể thao. Thế nên nếu có điều kiện thì vẫn nên làm tuần tự dãn cơ, khởi động làm nóng, vận động cường độ nhẹ và tăng dần thì tốt hơn.

Ngoài ra, tôi không cần phải tập thêm các bài bổ trợ cơ bắp nữa vì đã làm điều này ở các buổi thể hình rồi. Chạy bộ là bộ môn huy động sức mạnh của toàn bộ cơ thể, trong đó các nhóm cơ chính cần cải thiện đặc biệt là vùng core, đùi, mông và đầu gối. Đến đây ta sẽ thấy lợi ích tuyệt vời nếu ta là một người tập thể hình từ trước. Thường xuyên tập nặng các bài compoud như bench press, squat và deadlift cho phép tôi có một vùng core và thân dưới tương đối khoẻ mạnh để có thể phục vụ việc chạy đường dài. Cơ thể tôi cũng đã quen với cái gọi là áp lực thể thao nên thần kinh của tôi không hoảng sợ lắm khi phải quen với một nhịp điệu mới. Những nền tảng này theo tôi là khá quan trọng để tôi có thể bắt đầu với chạy bộ.

Tuy vậy bên cạnh những nền tảng thể chất đó, tôi vẫn phải rèn luyện từ con số 0 với những điều kiện cơ bản của chạy bộ là sức bền, độ dẻo dai, nhịp thở và hệ thần kinh. Luyện tập sức bền là căng thẳng nhất! Ta không có đường tắt nào cả ngoài việc nhẫn nại chạy thêm từng chút một qua mỗi buổi và chờ đợi cơ thể ta thích nghi, phục hồi và phát triển lên để phục vụ áp lực mới. Quá trình chậm chạp này để nhắc nhớ cho ta rằng thể thao nói riêng và cuộc đời nói chung đều không có gì là dễ dàng, hãy chấp nhận nó đi nhé.

Việc kiểm soát hơi thở là vô cùng quan trọng. Quá trình từ việc thở dốc, hụt hơi khi chạy ngay cả những quãng ngắn cho đến khi ta dần điều hoà được hơi thở của mình là một sự chuyển biến kỳ diệu. Tôi mất vài tuần để tập thở và học cách đưa hơi thở của mình vào nhịp điệu kiểm soát được. Kết quả là, theo đo đạc của ứng dụng Nike Run Club, ở cự ly 10K thì số kilomet thứ 6-7-8-9 của tôi có pace chính xác như nhau là 7:05. Các kilomet trước đó và kilomet sau đó đều ở mốc 6:xx (tôi tăng tốc ở kilomet cuối để cố đạt được mốc 7:00 trung bình). Điều này cho thấy ở những chặng cuối trong cự ly 10K giới hạn của mình, tôi làm được một điều là duy trì nhịp thở chính xác như nhau, trong khi sức mạnh chắn chắn là đi xuống, để duy trì được nhịp độ không đổi. Nếu không giữ được nhịp thở thì gần như chắc chắn ta sẽ phải chạy chậm lại và tất cả mọi thứ sẽ loạn xạ hết cả.

Thật may vì điều đó đã không xảy ra.

Một điều quan trọng nữa đó là hệ thần kinh của ta phải tự tin khi đương đầu với áp lực mới. Trong đầu ta phải có câu nói dõng dạc: Ta sẽ làm được!

Trước buổi chạy 10K, cự ly dài nhất tôi có thể chạy là 8.5K cách đó hai ngày. Tuy vậy, điều kiện hoàn thành cự ly đó khá tệ khi chặng từ 7K đến 8K tôi chỉ có thể thở dốc và lê lết đi cho xong, và khi chạy đến 8.5K thì gần như cạn kiệt.

Nhưng hôm nay, sau buổi tập tạ vào buổi sáng và thấy cơ thể khoẻ mạnh, tôi nói với mình rằng: Ta sẽ chạy 10K!

Đó là một ngày lạnh, gió mùa từ đâu chảy xuống Hà Nội khiến cái nóng nực đột ngột biến mất. Tôi sinh ra vào tháng 7 nhưng lại đặc biệt ghét cái nóng nảy lửa của mùa hè Hà Nội mỗi năm lại thêm một phần khốc liệt. Cái nóng đến lũ mèo cũng không mặn mà phơi nắng ngủ nữa mà lười biếng núp vào bóng râm uể oải. Tôi luôn thấy cái nắng nóng của Bangkok có phần dễ chịu hơn, mà kể như Đà Lạt thì thật tuyệt vời! Đó là những nơi mà cái nắng nóng dung dưỡng cho nhựa sống của chúng ta. Còn cái nóng của Hà Nội thì thật là tàn nhẫn, tôi đã ở quá xa nó rồi.

Tôi chỉ sống nổi trong mùa Đông Hà Nội, vốn đã ngày càng ngắn lại, có khi chỉ gói gọn trong vài tuần thực sự.

Nhưng hôm nay thì Hà Nội không nóng nữa và nếu đây là lần cuối trong năm cái lạnh mới ập đến, tại sao tôi lại không làm điều gì đó đáng để lưu lại cơ chứ.

Vậy nên tôi chạy. Thời tiết ủng hộ, cơ thể khoẻ mạnh. Ta gần như không thể đánh lừa được cơ thể mình. Ta không thể nói với bộ não ta rằng thôi nào, hôm nay mình khoẻ mà, trong khi rõ ràng là ta đang ốm sốt 39 độ. Hệ thần kinh đòi hỏi từ ta một sự trung thực đáng kể mà ta khó lòng dấu diếm được. Nhưng hôm nay tôi thấy khoẻ từ bên trong nên tôi mạnh dạn nói với nó là tôi khoẻ, nên chúng ta hãy làm điều gì đó vui vẻ khác thường đi nào.

***

Người chạy bộ lâu dần sẽ hình thành ý niệm về khoảng cách tương đối rõ rệt.

Tôi biết chính xác quãng đường từ nhà tôi đến nhà Ngoại là 4,2 kilomet. Cung đường Trường Chinh – Lê Trọng Tấn – Nguyễn Lân là hơn 4 kilomet một chút. Tương tự như vậy, khoảng cách từ nhà tôi đến cổng trường con tôi ở Times City là hơn kém 2,5 kilomet. Ta cũng biết chu vi của Hồ Gươm là 1,7 kilomet, ở Hồ Tây – cung đường bám hồ có thể đạp xe và chạy bộ được – ở quãng 14,8 kilomet, vòng rộng hơn thì là 16 kilomet. Hồ Hale là khoảng 2,1 kilomet. Cách không xa bãi biển An Bàng của Hội An có một góc chạy bộ hình chữ nhật men theo khu nhà dân mà chu vi ở đó đúng bằng 1 kilomet, nơi tôi đã cố chạy cho đủ cự ly 5K cách đây một tuần. Và những khoảng cách tương tự. Theo thói quen, ta sẽ nhẩm dần khoảng cách ở những cung đường quen thuộc mà ta nghĩ ta sẽ chạy bộ được.

Từ nhà tôi đến chính giữa Hồ Gươm là khoảng 5,2 kilomet, theo đó nếu tôi chạy đủ một vòng khép kín đi-về thì có nghĩa là tôi hoàn thành được cụ ly 10K đầu đời. Cung đường này – đi Phố Huế lên và Bà Triệu về – cũng đúng là cung đường tôi đạp xe đi học thời cấp 2 ở một ngôi trường không xa Hồ Gươm là bao. Ai mà không nhớ cái thời học trò ngơ ngẩn nhỉ.

Trong lúc mải miết chạy, tôi hững hờ nghe các podcast ngẫu nhiên song song với chạy đuổi theo các suy nghĩ trong đầu. Có lúc tôi không suy nghĩ gì cả mà chỉ cố chạy. Nhưng phần lớn thời gian, tôi để ý xem từng mốc kilomet mới từ khi xuất phát là ở quãng nào trên đường. Đôi khi tôi ngạc nhiên vì hoá ra mốc 3 kilomet kể từ nhà mình lại là đoạn này, kilomet thứ 7 là ở đoạn kia. Nhưng kể từ kilomet thứ 9 trở đi, tôi chỉ tập trung chạy cho xong vì cũng sắp tới giới hạn sức khoẻ rồi.

Gió lạnh Hà Nội tuy đôi khi có cản tốc tôi, nhưng phần lớn thời gian sự dễ chịu của thời tiết đã động viên tôi rất nhiều.

***

Chạy xong hơn 10 kilomet, tôi dừng ở một quán trà đá ven đường và uống liền ba cốc lớn.

Có lẽ người hoàn thành cự ly marathon lần đầu tiên cũng có cảm giác tương tự, ở một cấp độ hài lòng cao hơn, là cảm giác nhẹ nhõm. Tôi đã đạt được mốc 10K, vậy tiếp theo hẳn phải là HM-21K và FM-42K nhỉ?

Tôi từng nghĩ mình sẽ chỉ duy trì ở cự ly 10K để cơ thể cải thiện nhịp tim và giúp cho tập thể hình tốt hơn. Nhưng khi đã thực sự chạy và yêu mến bộ môn này, ai mà chẳng muốn đi đến hết mức với nó cơ chứ.

***

Bạn đồng hành với cự ly 10K lần này là đôi giày Nike Pegasus 39 tôi mua hôm qua. Một sự đầu tư nho nhỏ của tôi. Đây là dòng giày chạy bộ phổ thông phù hợp cho tập luyện hàng ngày. Sau khi tham khảo quá nhiều loại giày, dù ưa thích Saucony hay Asics, tôi đưa ra lựa chọn an toàn là đôi Nike này.

Nike Pegasus 39

Tôi vẫn đang dùng một đôi Nike để đi bộ hàng ngày. Đây là một đôi “giày đôi” tôi và vợ mua mẫu giống nhau khi còn sống ở Bangkok. Lý do mua hồi đó là vì đôi giày nhẹ quá, đi bộ có vẻ êm ái. Khi tìm hiểu về Pegasus 39, tôi thấy tò mò về đôi Nike kia của mình nên lộn cái lưỡi gà lên để tìm tên của nó. Bất ngờ tột độ khi đó cũng chính là một đôi Pegasus! Một đôi Pegasus 34. Tôi không hề biết nhưng quả thực tôi và vợ đã vô tình mua một chiếc giày chạy bộ nổi danh của Nike chỉ để đi bộ (thời đó chưa ai tập chạy cả).

Thế là tôi mang hai đôi ra để so sánh xem sau vài năm, Nike đã phát triển dòng Pegasus lên như thế nào. Nhìn vào mắt thường cũng có thể thấy được về phần đế đã dày thêm đáng kể, và nhiều công nghệ đã được thêm vào bên trong để phục vụ cho thành tích của người chạy bộ.

Pegasus 39 vs. Pegasus 34

***

Vì là một người tập đồng thời cả thể hình và chạy bộ, tôi có thể thấy sự bổ trợ của chúng trong nhiệm vụ xây dựng thể chất chung, cũng như tính chất khác biệt của hai bộ môn.

Một trong những điểm khác biệt nhất có lẽ là cảm giác hưng phấn khi chạy bộ tương đối hiếm gặp trong thể hình. Thể hình là câu chuyện của bùng nổ và chịu sức ép trong thời gian ngắn. Chạy bộ là niềm vui kéo dài. Tuy nỗi niềm chung của hai bộ môn khi kết thúc tập luyện đều là sự nhẹ nhõm của việc không phải tập nữa, nhưng ở chạy bộ ta có cảm giác hài lòng cao hơn khi tập xong. Thể hình thì khác, mọi nỗ lực và sức mạnh ta đã bỏ vào ở giữa các set rồi, nên khi kết thúc là một sự kiệt quệ thực sự. Khi chạy bộ, ta mệt thì có thể nghỉ một chút rồi chạy tiếp gần như với sức khoẻ tương đương trước đó. Điều đó không xảy ra với người tập thể hình nghiêm túc. Nếu đó là rep tạ cuối, thì đó là rep tạ cuối, ta không cố thêm được nữa. Vậy nên khi kết thúc, tâm trạng của người tập thể hình là một thứ tương đối trống rỗng. Còn chạy bộ đến một mức độ nào đó, gần như ta thấy có thể chạy được mãi, chạy mãi vẫn được, và đó là một sự hưng phấn kéo dài.

Thể hình với đặc thù của nó là một hoạt động thể chất hầu hết được thực hiện trong nhà. Tất nhiên với ai tập ở phòng gym bãi biển Muscle Beach ở Venice, California (nơi Arnold từng tập) thì khác, nhưng có lẽ chỉ dưới 1% phòng gym trên thế giới là có không gian mở như vậy. Hầu hết người tập thể hình lầm lũi với tạ trong những không gian đóng, nơi ít tính chất xã hội.

Chạy bộ ngoài trời lại là hoạt động thể chất mở, nơi không gian tập luyện là bất cứ đâu có một cung đường thân thiện cho chạy bộ. Hoặc không nhất thiết phải thân thiện lắm – tại các đô thị như Hà Nội nơi người chạy bộ chạy trực tiếp bên cạnh mật độ giao thông điên rồ, đua với xe tải, xe phân khối lớn và tiếng ồn đô thị khủng khiếp, chuyện bình thường thôi, ta làm được gì bây giờ.

Cũng chính vì vậy, tuy ưu tiên của ta là cố gắng sải bước cho đều và quan tâm vào nhịp thở và quãng đường trước mắt, rất nhiều khi ta cho phép mình quan sát thật chậm cuộc sống diễn ra trước mắt. Quan sát ở một tốc độ chậm hơn khi ta chạy xe thông thường và nhanh hơn khi đi bộ, cái tốc độ nhập nhằng lý tưởng ở giữa đó đôi khi nắm bắt giúp ta những tiểu tiết nho nhỏ mà thú vị của cuộc sống mà ta bỏ qua. Bất kể những thứ ngẫu nhiên nào đi qua cái liếc mắt của ta và đọng lại trong đầu sẽ đều là những điều mà ta nên quan tâm. Những người chạy bộ sẽ đồng ý với tôi điều này.

Một niềm vui nho nhỏ nữa khi chạy trên đường đó là với sự phổ biến dần lên của môn chạy bộ, ở bất kỳ cung đường nào ta sẽ dễ dàng bắt gặp những người cũng đang chạy bộ như mình. Chạy bộ bản chất không phải một môn thể thao ganh đua (trừ khi chạy giải), nên thiên hướng tự nhiên là ta thấy được cổ vũ khi gặp những người bạn chạy bộ không quen, và cũng ngấm ngầm cổ vũ họ. Ai cũng đang có một hành trình của mình, ai cũng nên cố gắng.

Tôi nhớ đến hai cậu thanh niên chạy ngược chiều với tôi ở ngã tư Trường Chinh – Tôn Thất Tùng. Ở góc cua hẹp đó do xung quanh còn nhiều phương tiện, và để tránh đâm sầm vào nhau, tôi chủ động lách ra một chút để họ được chạy bình thường mà vượt qua tôi. Như vậy họ sẽ không bị ảnh hưởng đến nhịp thở. Khi chạm mặt nhau, cậu thanh niên thứ nhất mỉm cười với tôi, còn tôi và người thứ hai bật ngón tay với nhau. Tôi và họ đều không quen.

Ứng xử trong chạy bộ là chúng ta cố tránh ảnh hưởng đến nhịp độ của người khác.

Tôi rất hiểu vì sao Murakami viết cuốn sách đó cho những người đã vượt qua ông và bị ông vượt qua khi chạy bộ.

***

Chạy bộ đường dài ngoài trời là cơ hội để ta ngắm nhìn cuộc sống.

Nếu bạn hỏi mong muốn của tôi là gì, thì đây, tôi đang lên kế hoạch để có thể chạy ở nhiều thành phố trên thế giới nhất có thể.

Tôi đã nói điều này với vợ tôi, và chúng tôi thống nhất là kể từ giờ nếu đi du lịch ở đâu thì cũng sẽ đều mang đồ nghề chạy bộ theo để nếu có thể thì sẽ chạy được luôn khi cần.

Và thật may là đồ nghề chạy bộ hoàn toàn không cồng kềnh. Chỉ một đôi giày đủ tốt, một bộ quần áo thoáng là đủ.

Là có thể chạy ở bất cứ đâu.

Bangkok. Đà Lạt. Đài Bắc. Châu Âu. Úc. Mỹ…

April 26, 2023  Leave a comment

Tôi nói gì khi nói về chạy bộ

Gần đây tôi quyết định trở thành một người chạy bộ. Tôi và vợ đang hình thành thói quen chạy bộ vài lần mỗi tuần.

Vì không biết liệu mình có theo được bộ môn này lâu dài hay không nên sau ba tuần gì đó khi đã đạt được mốc 5 kilomet (chạy liên tục, đương nhiên) và tin là mình vẫn sẽ chạy tiếp; tôi mới đọc lại quyển sách này của ông.

Về mặt thể chất mà nói, tôi đã sớm biết, cơ thể của mình không phải tạng thiết kế dành cho sức bền. Điều này đúng cho cả mặt sinh học vật lý và ưa thích cá nhân.

Như Murakami giãi bày, nhịp tim của ông khi chạy bộ cự ly dài chỉ ngang với người thường ở trạng thái nghỉ. Đây là một biểu hiện của tạng người sẽ chạy bộ rất cừ. Tôi thì khác, rất dễ tăng nhịp tim và thở dốc (có thể do tôi chưa đủ khoẻ). Tôi có khuynh hướng thích, và cũng khá cừ, các bộ môn rèn luyện sức mạnh có tính chất bùng nổ vào thời điểm hơn là các bộ môn dẻo dai ổn định. Ví dụ như tôi có thể thực hiện bài đẩy tạ bench press ở xuýt xoát mức Advanced theo độ tuổi và cân nặng của tôi – tức nghĩa là trên trung bình (khoẻ hơn một nửa đàn ông cùng tuổi) và gần mức khá (mức vận động viên bán chuyên) – cho dù chắc chắn tôi chỉ là một người tập thể hình tài tử. Trên mức Advanced là Elite, là cấp độ thi đấu thế giới, tất nhiên tôi còn xa mới đến được.

Các cấp độ có thể tìm hiểu tại đây: https://strengthlevel.com/strength-standards/bench-press/kg

Thể chất vật lý thì là thế. Tuy nhiên tôi cũng thực sự thích tập luyện sức mạnh hướng đến xây dựng cơ bắp. Nhưng với chạy bộ thì khác. Từ trong suy nghĩ tôi chưa từng thấy bị hấp dẫn bởi bộ môn này. Đối với tôi, chạy bộ khá tẻ nhạt. Chỉ là một vài động tác lặp đi lặp lại bất tận, tôi nghĩ như thế. Tương đồng với hình thức chạy, tôi thích; hoặc phải nói là đam mê, thậm chí đến mức ước mơ đầu đời là trở thành cầu thủ chuyên nghiệp ở giải Ngoại Hạng Anh; bóng đá hơn. Vẫn là chạy nhưng bóng đá ngoài bền bỉ ra vẫn cần những khoảnh khắc bùng nổ sức mạnh tại thời điểm. Thấy chưa, tính chất sức mạnh bùng nổ tại thời điểm này rõ ràng thuộc về bản chất của cái cơ thể là tôi đây.

***

Tuy cả điều kiện cơ thể và khuynh hướng lựa chọn cá nhân đều đẩy tôi khỏi tất tần tật những gì liên quan đến chạy bộ, tôi vẫn quyết định tập luyện môn này một chút. Do ba lý do.

Trước tiên phải nói về phong cách tập và mục đích tập luyện – tôi là người theo hướng bodybuilding, pha một chút powerlifting. Nôm na có thể hiểu mục đích tập luyện của tôi là để xây dựng cơ bắp mang tính thẩm mỹ, chủ yếu nhờ các bài tập compound phối hợp nhiều nhóm cơ cùng lúc (tôi ít tập các bài cô lập cơ isolation).

Đây rõ ràng không hẳn là phương thức tốt nhất để tập bodybuilding nhưng là cách mà tôi lựa chọn.

Tôi đọc được từ một bạn HLV thể chất mà tôi quen qua Facebook nói rằng, theo nghiên cứu khoa học, đàn ông thì nên tập luyện các môn sức bền và phụ nữ thì nên tập các môn sức mạnh. Một dạng bổ sung thêm điểm hạn chế về mặt giới tính. Vì lời khuyên có tính phổ quát nên chưa chắc đúng cho tất cả mọi người, tuy nhiên tôi thấy ít ra là đúng đối với mình. Tôi quá kém bền.

Như vừa nói ở trên, tôi thấy mình quả thực là quá kém bền. Tôi từng đá bóng suốt từ khi còn nhỏ cho đến hết học phổ thông, chỉ dừng lại khi lên Đại Học. Tức là tôi tuy không khoẻ lắm nhưng không thể gọi là hoàn toàn không chơi thể thao tí nào. Sau đó là gần như không có hoạt động thể chất nào nữa cho đến vài năm sau khi đi làm. Từng ấy năm tích luỹ sự lười biếng và yếu ớt khiến tôi mất rất nhiều công sức mới cải thiện được chút ít thể chất của mình, nhưng vẫn kém xa so với kỳ vọng.

Điều kém bền này đôi khi tai hại đến mức nếu tôi tập bài bobybuilding nào đó với số reps quá 10 là đã thở hồng hộc rồi. Kể cả vì tôi luôn tập với mức tạ nặng hết sức thì cũng không thể bào chữa được cho sự dễ hụt hơi đó. Nguyên lý cơ bản của tập sức mạnh là tăng volume theo thời gian để cơ bắp quen với áp lực và tăng trưởng để phản kháng lại. Tuy vậy hiện tượng trên khiến thành tích tập sức mạnh của tôi chững đáng kể nhiều năm nay, và đối với một người tập, quả thực hết sức khó chịu.

Vì thế tôi nghĩ nếu tôi tăng sức bền hơn một chút, từ đó cơ thể có thể chịu đựng áp lực tốt hơn, tôi sẽ tăng được thành tích tập tạ và qua đó gia tăng được cơ bắp.

Lý do thứ ba (hai lý do đã nói ở trên), lát nữa tôi sẽ giải thích sau.

***

Vậy nên tôi quyết định chạy bộ, ở tuổi ba mươi lăm. Muộn hơn đôi chút so với Murakami khi bắt đầu ở quãng ba mươi ba tuổi.

Mục đích chạy bộ của tôi tuy vậy có lẽ khác ông khá nhiều. Tôi chạy bộ là để bổ trợ cho con đường luyện tập sức mạnh để gia tăng cơ bắp của mình. Với dân bodybuilding mà nói, các bài tập HIIT tuy tốt và cần thiết nhưng tập bền quá nhiều có thể còn làm giảm cơ bắp ở dài hạn. Vì lẽ đó tôi tự xác định giới hạn chạy bộ cho bản thân là ở mốc 10 kilomet. Tức là luyện tập đến mức bền có thể cho phép tôi chạy ở cự ly 10 kilomet không nghỉ với nhịp độ tối đa là 7 phút trên một kilomet. Ở nhịp độ đó miễn sao nhịp tim và huyết áp của tôi ổn định là được. Tôi có thể mong muốn giảm pace xuống 6 nếu thấy mình làm được điều này, nhưng có lẽ không tham vọng xuống mức thấp hơn làm gì.

Đây rõ ràng không phải là một mục tiêu cao xa gì với bất kỳ người chạy bộ nào ngoài kia. Nhưng so với bản thân tôi của hiện tại khi mới chạy nổi cự ly 5 kilomet và pace hơn 6 (đôi khi là 7) thì quãng đường trước mắt vẫn còn xa lắm.

Tôi dự định là khi nào đạt được cột mốc đó (không cần khẩn trương lắm) tôi sẽ giữ thành tích ở mức đó và duy trì lâu dài.

Tương lai xa hơn, có thể trở thành một người chạy bộ cự ly dài như Murakami không thì chưa thể biết được. Có thể tôi sẽ chán chạy bộ ngay tháng sau không biết chừng.

***

Sau khi thực hành chạy bộ tương đối nghiêm túc – tức là vượt qua vài ngày đầu băn khoăn đến nhức nhối vì việc tại sao mình phải làm điều này, và vượt qua cảm giác nhàm chán của việc lầm lũi chạy trong vô vọng, phải nghỉ liên tục và chỉ muốn dừng lại phắt cho xong; vượt qua tất cả những điều phiền phức bước đầu của chạy bộ để ta tiến đến một trạng thái không còn lười, và chán ghét, việc xỏ giày xuống đường nữa, và thậm chí còn tốt hơn, ta bắt đầu nhìn thấy những điều tích cực nhỏ bé hiện ra trong bản thân việc chạy bộ lẫn cái hiện thực cuộc sống xung quanh cứ liên tục bị ta bỏ lại phía sau qua từng bước chạy – tôi đọc lại quyển sách nhỏ của ông.

Đối với tôi, đây vẫn là quyển sách gần gũi, thuần tuý, chính xác nhất của Murakami.

Tôi thích sách nhưng không hề là một người chi li giữ sách cẩn thận. Quyển sách nào qua tay tôi đọc xong cũng gần như là tơi tả, đầy những nếp gấp đánh dấu những trang quan trọng, nhiều vết bút tích ghi nhớ và nhiều cung cách cá nhân khác nữa. Sách không phải để trưng trong tủ và giữ cho thật mới. Sách là để đọc, để ta ôm ấp, lọc ra trong đó những điều ta cần biết, muốn biết, và cả đã biết rồi. Vì lẽ đó, cứ đối xử với sách theo cách mà ta muốn.

Đây không phải là lần đầu tôi đọc Tôi nói gì khi nói về chạy bộ.

Cầm quyển sách này lại trên tay, tôi nhìn thấy rất nhanh rất nhiều trang nếp gấp đánh dấu của những lần đọc trước. Tôi vẫn xúc động và hoa mắt với nhiều câu văn đẹp, những đoạn miêu tả, và cảm xúc sống động trong các câu chuyện kể của ông.

Tuy vậy, ở lần đọc này tôi cũng ngạc nhiên nhận thấy mình vẫn có thể lọc ra những gì đã vô ý bỏ qua, hoặc chưa thấy là quan trọng ở lần đọc trước. Và như thế, nhiều trang nữa lại được gấp lại, nhiều đoạn văn (mới) đã được tô thêm.

Đó có lẽ là một cách hình dung về một quyển sách hay.

Sách hay thì không cũ bao giờ – ta luôn có thể tìm thêm điều đẹp đẽ nữa ở bất kỳ lần đọc lại nào tiếp theo.

Nhất là lần này tôi đọc với tư cách của một người chạy bộ.

***

Một điểm thú vị là dường như Murakami đã trở thành một người chạy Marathon rất nhanh kể từ khi bắt đầu chạy bộ. 26,2 dặm hay 42 kilomet tuyệt đối không hề là một cự ly dễ dàng cho bất kỳ đối tượng nào, kể cả có thiên phú về sức bền đi chăng nữa. Người lính năm xưa hẳn đã không chết vì kiệt sức nếu quãng đường đó nằm trong giới hạn thông thường của con người.

Murakami không nói chính xác thời gian bao lâu để ông đạt được mốc Marathon, ta chỉ có thể đoán được là khá nhanh. Điều này có lẽ không quá phi thực tế khi thể chất của ông vốn thân thiện với môn chạy bộ.

Tuy vậy 26,2 dặm hay 42 kilomet đơn giản vẫn là một cự ly dài, vô cùng dài, mà bạn không thể chinh phục được nếu không nghiêm túc tập luyện đằng đẵng, thậm chí là cật lực, từ đầu cho đến khi bất kỳ lúc nào đột nhiên đạt được tuỳ vào thiên phú thể chất của mỗi người.

Trước khi chạy bộ, tôi đã lường trước được sự khó khăn của chạy bền và cự ly Marathon lừng danh. Sau khi chạy bộ, tôi vẫn choáng váng vì độ lớn bao la của cự ly này trong trải nghiệm thực tế. Để mà nói thì mốc 5 kilomet của tôi chỉ là một màn khởi động ngắn của một vận động viên chạy đường trường.

Dù sao đi nữa tôi cũng không, hoặc chưa, đạt mục tiêu Marathon, nên cứ tạm để nó qua một bên đi đã.

Điều đáng ghi nhận tiếp theo đến từ trải nghiệm của Murakami trong chạy Marathon đó là bạn sẽ chinh phục cột mốc 26,2 dặm hay 42 kilomet mỗi lần mỗi khác. Không có tính chất mặc định trong thể thao. Tức nghĩa là kể cả bạn đã từng chạy cự ly này một cách thoải mái ở lần thử trước, không có nghĩa là đến lần sau bạn sẽ tiếp tục đạt được thành tích này với cùng sự nỗ lực, nhịp độ, sự vui vẻ, bằng lòng, đôi khi bạn còn có thể thất bại không rõ lý do. Chung quy lại, bạn không thể nói trứơc được điều gì nếu chưa chạy đến số dặm cuối cùng và bước qua vạch đích. Chính tính chất không nhất quán của thành tích đó có thể là sức hút cho môn chạy bộ này, là động lực khiến người chạy bộ nỗ lực tập luyện hơn nữa, mỗi ngày, để có những trải nghiệm chinh phục khác đi.

Giờ đây, khi đã là một người chạy bộ (tuy chỉ là bước đầu), tôi vẫn nhận ra những vẻ đẹp bình dị và nhỏ nhoi mà bộ môn này mang lại.

Ở một khía cạnh, chạy bộ nói riêng và thể thao nói chung đặt ta mau chóng vào một tình trạng rỗng không. Đương nhiên sẽ có lúc ta bắt đầu chạy với hàng mớ suy nghĩ ngổn ngang trong đầu. Nhưng trong hầu hết trường hợp, khi đã đến lúc phải tập trung để phản kháng lại cơn đấu tranh đòi dừng lại của cơ thể, ta bắt buộc sẽ dần phải học cách tĩnh lặng ở sâu sa bên trong, bỏ bớt các suy nghĩ, tập trung vào ba thước trước mặt và một mục tiêu duy nhất là làm sao để bước tiếp một bước, rồi một bước nữa. Cứ như thế ta dần đạt đến trạng thái rỗng không.

Ngoài ra, vì hầu hết người chạy bộ sẽ chạy ở một cung đường quen thuộc nào đó, tuy thỉnh thoảng có thay đổi, khiến ta dần lặp lại không chỉ một số hành động thể thao cố hữu, mà cảnh trí xung quanh ta cũng là một bức hình không có quá nhiều thay đổi hàng ngày – điều kiện tưởng như là mầm mống của tẻ nhạt, nhưng thực tế thì tất cả những gì một người chạy bộ quan tâm là cung đường của ta có đủ thuận lợi để ta hoàn thành bài tập của mình hay không. Vậy nên những gì xung quanh có ra sao cũng không thực sự tác động nhiều lắm, miễn là nó không ảnh hưởng đến chính việc chạy bộ của ta là được.

Tức là chạy bộ là một hình thức khiến ta tập trung cho bản thân.

Và đó là một điều cần thiết trong cái thế giới hàng ngày ta vốn dĩ đã phải ném mình vào xã hội tệ hại này quá nhiều.

***

Lý do thứ ba tôi chạy bộ là vì tôi muốn một ngày nào đó con trai tôi cũng sẽ nhìn gương tôi mà chạy bộ.

Thừa hưởng bộ gen từ ông bố như tôi, con trai tôi có thể chất không hẳn là khoẻ mạnh lắm. Nó vốn bị thân nhiệt thấp từ khi lọt lòng, khiến bệnh viện quyết định theo dõi trong lồng kính cho đến khi nó ổn định thì mới đưa về cho gia đình.

Lớn lên một chút, tôi thấy rõ nó cũng có biểu hiện hạn chế về sức bền như tôi. Rất dễ hụt hơi và thở dốc.

Điều này ngược lại với em gái nó. Tuy cùng bố cùng mẹ sinh ra nhưng cô em lại khoẻ mạnh, ăn uống ngủ nghê giỏi, và thể chất tuyệt vời.

Tôi không muốn nó trở thành một thanh niên yếu ớt như tôi trước kia, rồi mất rất lâu mới cải thiện được thể chất tí chút. Đó là tôi tương đối may mắn khi có đủ nhận thức về thể chất của mình, và không quá lười biếng để quyết tâm cải thiện trong nhiều năm nay rồi đó.

Nên tôi hy vọng vài năm nữa khi con trai tôi lớn lên một chút, nó sẽ có ý thức cải thiện thể chất của mình từ sớm. Điều này sẽ dễ dàng và có khả năng hơn khi xung quanh nó là những người cũng thực hiện việc tập luyện thể chất đều đặn. Trẻ con về cơ bản rất hay quan sát và bắt chước người lớn xung quanh, nên nếu được thì tôi muốn con trai tôi hình thành ý niệm về thể thao, và hơn cả thế, xây dựng được niềm yêu thích với thể thao và theo đuổi một thói quen tập luyện thể chất nào đó càng sớm càng tốt.

Tôi muốn giúp đỡ con trai tôi, nên chắc chắn là tôi phải duy trì việc tập luyện cho đều rồi.

Một ngày nào đó, tôi sẽ cùng chạy bộ với con trai tôi. Và cả tập thể hình nữa, nếu nó có hứng thú.

***

Đây là một cuốn sách tự truyện tập trung vào hành động chạy bộ, và cũng là nơi thể hiện những triết lý Murakami một cách trung thực và rõ ràng nhất.

Qua chạy bộ, ông dần hình thành những ý niệm cơ bản nhất về cuộc đời, tích luỹ những trải nghiệm quý giá để từ đó hình thành nên con người nhà văn sau này.

Murakami có lẽ vẫn sẽ là một nhà văn nếu không phải một người chạy bộ. Nhưng Murakami đó chắc chắn sẽ là một Murakami rất khác mà giới văn chương biết hiện nay.

Và tôi yêu quý một Murakami nhà văn như ông đã trở thành.

Cũng như tôi trân trọng và yêu quý ông trên tư cách những người chạy bộ – những người mà hàng ngày chia sẻ một hành trình chung là lầm lũi tập trung vào bản thân, vượt qua những cung đường, vượt qua những con người hoặc bị những con người vượt qua, để từ đó đạt đến những tiêu chuẩn của bản thân.

Bởi, không có gì ngoài tiêu chuẩn của bản thân là quan trọng.

12:33 AM

080423

Một người chạy bộ viết vội khi vừa vượt qua mốc 5 kilomet pace 6.2 một lần nữa

April 8, 2023  Leave a comment

chọn ngồi thật yên

Mỗi ngày
tôi chọn ngồi thật yên
Nhìn rõ quê hương,
ngồi nghĩ lại mình

Tuổi 30.

Tuổi 31.

Tuổi 33.

Nhìn lại mấy năm qua, kể từ khi bước vào độ tuổi “tam thập” – những suy nghĩ của tôi về cuộc đời bỗng trầm trọng và sâu sắc hơn xưa. Những biến cố đẩy chúng ta đi, đến một hành trình rồi cũng chỉ để trở về chính mình. Những câu hỏi lớn về cuộc đời mà ta bắt buộc phải hỏi, một cách tự nhiên, qua tháng năm, qua giông bão, qua biến chuyển, qua tình đời, chúng được trả lời hoặc gần được trả lời, để dẫn dắt ta đi, bước tiếp trong hành trình tìm về chính mình này.

Năm nay tôi đã đến cái mốc mà hai năm trước tôi định nghĩa là mốc hoặc rơi vào đáy sâu của vùng giữa không thuộc về đâu cả, hoặc chuyển giai đoạn sang một mốc mới hướng lên của cuộc đời. Mốc ba mươi lăm. Theo một vài quan điểm, là mốc gần hơn với mid-life crisis.

Tôi vẫn chẳng quá quan tâm đến các điều đó đâu.

Tôi chỉ thấy rằng, một điều quan trọng mà mình cần nắm giữ được khi thời gian trôi qua, là học cách để ổn định tinh thần và cảm xúc của bản thân.

Tôi vừa update lại trang “About” của blog này, với trang mới được gọi đơn giản là “Về tôi“. Trong đó tôi viết, “Tôi có nhiều đam mê, và hơi nhiều cảm xúc với cuộc đời này, kể cả trong những lúc ít cảm xúc nhất“.

Dành nhiều cảm xúc cho cuộc đời thì cũng tốt, nó giúp ta vui sống và biết ơn. Nhưng có vẻ hợp với khi ta trẻ hơn. Khi ta ba lăm tuổi trở đi, một điều quan trọng hơn đó là giữ được cảm xúc ở một mức độ ổn định và vừa đủ.

Để không có nỗi đau nào dày xé ta quá mức, không có nỗi buồn nào quỵ ngã ta, cũng chẳng có niềm vui nào cám dỗ ta đến mức đánh mất bản thân mình.

***

Tôi muốn như Trịnh, có thể ngồi thật yên mỗi ngày để nhìn quê hương, nhìn lại mình.

Sự thanh thản đó không dễ có được nhưng là một trạng thái cần đạt tới.

Tôi muốn giống như con tôi, vô ưu và vui vẻ, háo hức với tất cả những gì cuộc đời mang đến cho nó.

Và nhìn cuộc đời trôi qua.

 

July 7, 2020 – viết chậm một ngày vì nổi hứng muộn

July 7, 2022  Leave a comment

cần deep talk

CHỮA LÀNH

Cần hít thở không khí nên tôi ra khỏi khách sạn đi bộ một chút. Khu vực này vốn nhiều căn hộ và nhà hàng nên không hẳn là vắng lắm, tôi lánh vào một con ngõ dài và tối để có thể hưởng chút một mình. Khánh Ly đang hát Ta thấy gì đêm nay, tôi nghe Trịnh từ chiếc điện thoại mang theo.

Chỉ có khi đi công tác tôi mới có thời gian hiếm hoi để đi bộ một mình và nghe nhạc buổi tối. Dạo này Trịnh Công Sơn bỗng rộ lên từ cái bộ phim kể về ông. Tôi không xem phim Việt nên không biết bộ phim ra sao, nhưng những xôn xao xung quanh thật là phiền phức. Trịnh là một nghệ sĩ và chỉ là một nghệ sĩ mà thôi. Sự cô đơn của ông khắc khoải đến nỗi chỉ có thể gửi gắm vào âm nhạc để nói lên cõi lòng mình. Rồi cái âm nhạc ấy chạm thẳng đến ta, ở tầng sâu kín nhất, xoa dịu cho ta nỗi buồn và bơ vơ trong cuộc đời này. Hãy cứ nghe âm nhạc của Trịnh và lắng nghe cõi lòng mình bộc bạch, bận tâm những chuyện xung quanh chẳng phải quá mất sức hay sao?

Nhìn những mùa thu đi
Em nghe sầu lên trong nắng

Trong một ngày lòng mình bình thản, nghe Khánh Ly hát câu này cảm thấy thật trác tuyệt. Chúng ta nên giữ một thái độ như vậy với cuộc đời, cứ bình thản nhìn nó trôi đi thôi…

Chữa lành – cụm này đang là xu hướng của thời đại. Dường như ai cũng có vấn đề tâm lý, dường như ai cũng đang hộc tốc để được chữa lành. Tại sao lại vậy? Tại sao những người trưởng thành hiện nay dường như lại cần chữa lành nhiều đến thế?

Tôi nghĩ rằng vì chúng ta đã sống hàng ngày mà thiếu đi những cuộc nói chuyện sâu (deep talk).

Deep talk là những cuộc nói chuyện khiến ta có thể bộc bạch toàn bộ, hoặc gần như toàn bộ, nỗi lòng mình. Không che dấu, không mặt nạ, mang tính chất giải phóng tuyệt đối. Đó là nhu cầu chia sẻ cơ bản của con người. Nhưng lâu nay đã không còn nữa.

Làm sao có thể deep talk khi phần lớn giao tiếp trong ngày của chúng ta là dành cho những cuộc họp, những phân tích, những cơm áo gạo tiền?

Làm sao có thể deep talk với những con người ta gặp và phần lớn là chán ghét, hoặc ít trầm trọng hơn, không hẳn là thân thiết lắm, và cơ bản là không hiểu gì về nhau.

Làm sao có thể nói với họ về giấc mơ của ta, về nỗi buồn của ta.

Làm sao có thể deep talk được nữa sau khi chiến đấu với cuộc đời ngoài kia, vốn dĩ đã mệt nhoài khi về nhà, ta chỉ có thể ngủ để chuẩn bị sáng mai tiếp tục cho một cuộc chiến đấu nữa.

Deep talk hầu hết là hoạt động đầu tiên của chữa lành. Các chuyên gia sẽ tìm cách kết nối với đối phương bằng trò chuyện, giao tiếp, gợi mở, và đẩy câu chuyện đi vào sâu sắc để đối phương bộc lộ được ra. Cũng tức là khai thác cái nhu cầu được nói, được mở lòng, được tuôn trào bản thân vốn đã giữ kín bấy lâu nay.

Khai thác một nhu cầu cơ bản, nhưng con người đã vô tình bị tước đi trong xã hội này.

Deep talk giống như sức khoẻ – lúc trẻ chúng ta bán sức khoẻ để lấy tiền, về già lại dùng tiền cầu mua lại được sức khoẻ.

Chúng ta từng deep talk rất nhiều, rất lâu, với rất hữu hạn người trong phần lớn thời gian mỗi ngày ta sống.

Rồi chúng ta rời bỏ các cuộc deep talk ấy để vùi mình vào các cuộc nói chuyện thực dụng với những người chúng ta không yêu quý lắm, phần lớn thời gian trong ngày/tuần/tháng/năm. Rồi khi nhu cầu deep talk ập đến, ta cuống cuồng tìm lại thì không thấy những người thân kia ở sẵn đây nữa. Chúng ta trầm cảm dần. Chúng ta tìm đến các chuyên gia chữa lành, để chữa các vấn đề đáng ra rất dễ giải quyết.

Một cuộc nói chuyện sâu sắc thực sự luôn thức tỉnh chúng ta, mang lại cho ta năng lượng để sống tiếp với cuộc đời thật đẹp này.

Vợ chồng thì nên deep talk thường xuyên với nhau. Bạn bè cũng vậy.

Đừng để đến khi phải tìm các chuyên gia chữa lành làm việc đó thay cho người mà ta yêu mến.

July 1, 2022  Leave a comment

“Nàng thơ” của Bố

Con trai tôi sinh ra tại Bangkok, một mùa hè bốn năm về trước.

Về sau này, tôi sẽ kể cho nó về “gốc gác Thái Lan” của nó. Tất nhiên, việc sinh ra ở Thái Lan không biến nó thành một người Thái gốc Việt được – nhất là khi nó chỉ ở đó đúng ba tháng rồi về Việt Nam; nhưng tôi muốn con biết Thái Lan là nơi mà bố mẹ nó đã sống quãng thời gian tuyệt vời của tự do tuổi trẻ, rồi sau đó mang thai, hạ sinh và đưa con về Việt Nam; mà mỗi ngày kể từ khi trở về không lúc nào chúng tôi không mong mỏi được quay lại mảnh đất đó.

Thằng bé sinh ngày mùng 7 tháng sáu. Ngay từ trong ngày sinh đã là sự đối ngược với ông bố nó là tôi (mùng 6 tháng bảy). Vì vợ tôi đẻ mổ, vị bác sỹ Thái Lan sau khi tính toán tuần sinh đã đề nghị ngày sinh đó cho vợ chồng tôi. Tôi đồng ý ngay, cũng như chấp nhận ngay việc ông con chắc chắn sẽ xung khắc với mình. Vốn dĩ là một truyền thống gia đình, đàn ông trong nhà tôi mấy đời đều xung khắc, không lấy gì làm hoà thuận cho lắm.

Đó là chưa kể tôi tuổi Mèo, còn ông con tuổi Cún. Vậy đó.

Từ bé nó đã là một đứa trẻ cá tính mạnh, không chịu khuất phục. Tôi nhìn thấy trước tương lai xung khắc nên trong hiện tại, không cách nào khác, tôi cố gắng để yêu nó nhất có thể, khi thằng bé còn đang cần mình.

Sau này lớn lên, thằng bé sẽ dần tiến đến thế giới rộng lớn của nó. Nhưng ngay lúc này đây, có những ngày đi làm về, thằng bé rạng rỡ chạy ra đón; hoặc khi nó ngủ dậy ở nhà ông ngoại mà không thấy tôi sẽ mếu máo đòi tìm tôi bằng được và khi nhìn thấy thì ôm chặt lấy bố vì “sợ bố đi mất”, làm tôi muốn khóc. Frédéric Beigbeder nói mọi ông bố đều giống một gã ngốc hạnh phúc, quả là không sai. Tôi bỗng trở nên uỷ mị từ khi làm bố, có khi chỉ từ một cái ôm ghì của ông con sau vài tiếng không gặp. Chả hiểu sao thấy mình dễ mủi lòng vô cùng.

***

Tôi đã trì hoãn việc có con khá lâu.

Thực tế tôi từng nghĩ mình có thể sẽ không bao giờ làm bố. Và tôi thấy ổn với suy nghĩ đó. Khi ta trẻ hơn, ta thường tiên lượng về cuộc đời mình không hẳn là chính xác. Tôi không có hình mẫu về người bố lý tưởng để noi gương theo, việc mà tôi nghĩ tương đối quan trọng đối với một gã trai trẻ. Ai cũng cần hình mẫu để noi theo, trong trường hợp của tôi thì không như vậy, nên tôi không biết như thế nào là một người bố tốt. Cái suy nghĩ gần như biết chắc mình sẽ là một ông bố tệ không hiểu sao cứ ghim vào đầu tôi như một cách mặc định, vậy nên tôi cố để không trở thành bố càng lâu càng tốt.

Ấy thế mà cuối cùng tôi cũng có con.

Tôi hoàn toàn không chuẩn bị gì để làm bố, kể cả khi đã trở thành. Cho đến tận bây giờ, khi đã có ba đứa con, làm những công việc của một ông bố hàng ngày và vui vẻ với điều đó, tôi tự biết là mình vẫn chưa bao giờ sẵn sàng và hoàn toàn không chuẩn bị gì cả. Tôi cũng chưa từng cố gắng để làm một ông bố “chuyên nghiệp” – theo ý nghĩa là trang bị kiến thức và kỳ năng bài bản, phù hợp với tiêu chuẩn văn minh. Tôi trở thành bố một cách hoàn toàn bản năng, và đương nhiên, phần nhiều vụng về.

Riêng về điều này vợ tôi lại giỏi vô cùng. Nàng tìm hiểu tất cả mọi thứ về mang thai và nuôi dạy trẻ một cách nhẹ nhàng, khoa học. Tôi tin tưởng tuyệt đối, và từ đó dựa dẫm hoàn toàn, vào vợ tôi trong vấn đề con cái. Phụ nữ khi làm mẹ có năng lực siêu nhiên, điều này không thể đúng hơn. Tôi thán phục và cũng không hẳn là ghen tị nhưng chấp nhận một sự thật là các con của tôi yêu mẹ nó hơn nhiều. Tôi hài lòng với mức độ tình yêu mà con dành cho mình, ở vị trí số hai. Cũng không hẳn là tệ.

Nếu tôi trở thành một ông bố tốt, chắc chắn là do vợ tôi huấn luyện và giúp đỡ chứ để tự tôi thì e rằng quá xa vời. Và cũng bởi vì vợ tôi, việc trở thành bố hoá ra không quá đáng sợ như tưởng tượng, bởi cái gì khó nhất thì nàng đã làm hết rồi.

Tuy con tôi yêu mẹ nó hơn, tôi vẫn được hưởng hạnh phúc đầy đủ của một ông bố. Tôi rất hài lòng trước sự tin cậy mà con trai tôi dành cho tôi. Tôi là kiểu chỉ cảm thấy thoả mãn về mặt tình cảm khi người khác tin cậy mình, và càng thích hơn khi sự tin cậy đó đến từ một đứa bé, hay một con mèo – những đối tượng không hề dễ để lấy được sự tin cậy tự nhiên của chúng. Đừng có nghĩ làm một con mèo, hay một đứa bé, tin cậy mình là dễ nhé. Cứ thử mà xem.

Bởi vậy tôi vẫn là một gã ngốc hạnh phúc. Và bởi vậy, từ khi có con, tôi không nghĩ trong cuộc đời này còn có gì quan trọng hơn việc con tôi vui vẻ mỗi ngày (và ăn xong bát cơm).

***

Con trai tôi không tình cờ sinh ra ở Thái Lan. Vì tôi đang đi công tác dài hạn nên chúng tôi nghĩ tốt nhất là sinh ở đó cho dễ xoay xở giữa công việc và gia đình. Thêm nữa, sau hai năm sống ở Thái Lan, chúng tôi thực sự cảm mến đất nước này – nơi đã chữa lành và mang lại rất nhiều kỷ niệm. Nếu cơ hội cho phép chúng tôi còn muốn được tiếp tục sống tại Thái Lan nhiều năm hơn nữa.

Đó là khoảng thời gian tôi cảm thấy mình phát triển nhất trong công việc. Có lẽ không chỉ tôi mà cả team của tôi. Chưa nhiều doanh nghiệp công nghệ Việt Nam tiến sang thị trường Thái Lan lúc bấy giờ (bây giờ thì đã phổ biến hơn). Hầu hết đội ngũ chúng tôi còn trẻ, chưa vướng bận gia đình, còn sung sức và nhiệt huyết, tất cả đều sục sôi một tinh thần khởi nghiệp Việt Nam tại thị trường nước ngoài, rất đáng tự hào. Chúng tôi đã sống với nhau, làm việc cùng nhau, vui vẻ với nhau, tiếc nuối với nhau, và hầu hết đều có những kỷ niệm đẹp một thời mang chuông đi đánh xứ người. Tôi đã có nhiều anh em bạn bè bên ngoài công việc sau khi là đồng đội sát cánh với nhau nhiều năm. Những mối quan hệ lành mạnh, tốt đẹp.

Tôi không còn tìm lại được cái nhiệt huyết hồi đó nữa trong các công việc sau này mình làm. Có những thứ chỉ đến một lần, và ở lại mãi.

***

Tôi sống suốt ba năm trong một con ngõ nhỏ vùng rìa Bangkok, để đi lên trung tâm phải qua bốn trạm BTS. Con ngõ này có nhiều dân lao động và nhiều người đạo Hồi sinh sống, hết sức mến khách và thân thiện. Công ty cách đó không xa, mười phút đi bộ là tới. Quán ăn trong ngõ không nhiều nhưng đều phục vụ các món Thái theo kiểu bản địa, chúng tôi vẫn hay ăn trưa ở đó, hoặc khi đi làm về muộn thì là ăn đêm. Tôi sống ở đó đủ lâu, sống lẫn với cuộc sống của người bản địa, nên rất nhanh không còn cảm giác mình là du khách nữa mà đã thực sự sống cuộc sống đời thường trong một cuộc đồng nhỏ những người bản địa.

Có đứa bé Thái sinh ra trong quãng tôi sống ở đó và nhìn nó lớn lên, ít nhất cho đến khi biết đi chập chững. Tôi nhớ bọn mèo hoang ở đó, đêm nào cũng nằm ườn èo trên bờ đê đầu ngõ, không hề sợ hãi những đám người ồn ào nhậu nhẹt bên cạnh. Những hôm trời mưa, chúng lẩn vào bên trong cửa những ngôi nhà ven đường, nhẫn nại nhìn mưa ngoài phố vắng cho đến khi tạnh hẳn để lại vật vờ lao vào màn đêm. Tôi thích một con mèo trắng to lớn ở đó, trông lúc nào cũng lờ đờ và cáu kỉnh, mà có lần tôi mua đồ ở cửa hàng tiện lợi cho nó ăn. Tôi để cả túi hạt mèo ở dưới đất, sáng hôm sau thấy chiếc túi bị rách nát và hạt thì hết sạch. Lũ mèo chắc đã có một bữa no.

Xung quanh khu tôi sống có tương đối đầy đủ tiện ích cơ bản, từ giao thông cho đến mua sắm. Nếu đi bộ trong vòng mười phút, ở khu bên kia nếu lấy công ty tôi làm trung điểm, có rất nhiều điểm thú vị mà chỉ người dân bình thường mới tìm thấy được. Ở đó có quán cơm gà vỉa hè ngon-nhất-Bangkok, do hai cha con người Thái mở bán buổi trưa cho dân văn phòng xung quanh. Người thanh niên xăm kín mình những hình xăm của Thái, rất giang hồ tứ chiếng nhưng thực chất lại cực kỳ tử tế, luôn hết sức cố gắng phục vụ đám khách quen người nước ngoài ồn ào. Quán vỉa hè có món hơi giống cơm gà Hải Nam nhưng ngon hơn nhiều lần, dù cách chế biến vô cùng đơn giản – chỉ có gà được luộc kỹ bằng nước sương, ăn cùng cơm trắng và có nước sốt chế biến riêng. Rất nhiều buổi trưa, niềm vui của dân văn phòng bình thường chúng tôi là ăn cơm gà rồi đi bộ sang một quán cà phê ngay góc đường bên cạnh – quán Bevanda. Quán rất nhỏ chỉ để vừa hai bộ bàn ghế cho lượng khách hữu hạn, nhưng khu vườn xung quanh lại rộng rãi và có nhiều cây nên chúng tôi ngồi đó tán phét giữa buổi trưa mùa hè Bangkok vẫn thấy dễ chịu. Cô chủ quán thân thiện, dễ mến; chị em phụ nữ kháo nhau rằng cô chủ này toàn mặc những chiếc váy giá 20.000 baht, nên hẳn là cô mở quán cà phê cho vui. Nếu đi thêm một đoạn rẽ vào khu dân sinh, chúng tôi cũng tìm được một quán ăn gia đình của người Thái, nơi phục vụ món canh Tom yum xuất sắc. Vì đám khách người Việt đến quá thường xuyên, menu của quán cuối cùng có thêm cả tiếng Việt, và chúng tôi gọi đó là “quán VIP”. Rất không xa quán đó là một khu trung tâm thương mại nhộn nhịp Robinson – nơi chúng tôi hay đi chợ mua đồ ăn vào cuối tuần. Đối diện với khu đó có một quán Vịt Tàu gia truyền nổi danh, có lịch sử cả trăm năm, không gian bên trong cổ xưa đến mức thời gian dường như không trôi đi tại đây nữa. 

Đó là khu tôi sống ở Bangkok – một khu bản địa bình thường thường, và nơi con tôi đã sinh ra – chính xác từ một bệnh viện rất gần nhà, bệnh viện Saint Louis – tuy trông không quá sang trọng nhưng là một bệnh viện trung lưu của người Công Giáo, phải đến khi mấy đứa nhân viên người Thái của tôi nói thì tôi mới biết bệnh viện này không phải phổ thông cho lắm. Đó cũng là lần đầu tôi và vợ trải nghiệm dịch vụ y tế của Thái Lan. Tôi có một tuần trong viện chăm vợ sinh, gần như không phải làm gì vì mọi thứ có y tá và bác sỹ lo cho hết.

***

Thằng bé bị nhẹ cân và thân nhiệt thấp nên bác sỹ cho theo dõi trong lồng kính hai ngày mới trả về. Chỉ khoảng chưa đến ba mươi phút từ khi vợ tôi được kéo vào phòng mổ, có một chiếc xe đẩy trẻ sơ sinh do y tá đưa ra. Lúc chiếc xe đi lướt qua tôi và mẹ vợ, tôi không biết đó là con mình. Tuy vậy, nhìn thấy đứa bé tôi vẫn tò mò đọc thử tên sản phụ trên xe đẩy thì mới biết. Tôi vội vàng báo cho mẹ và chạy theo xe đẩy của y tá đến phòng chăm sóc dành cho trẻ sơ sinh. Trống ngực đập thình thịch. Cho đến mãi lúc đó, tôi vẫn thấy không thể tin nổi. Con tôi đã đến thế giới này!

Thằng bé được đưa vào phòng chăm sóc sau sinh, nơi cũng có vài đứa trẻ khác vừa ra đời. Căn phòng oe oe tiếng trẻ con khóc. Âm thanh vô tội khởi nguồn của sự sống tại căn phòng đó thật là kỳ diệu, khiến ta thổn thức ngay lập tức. Ngay bên cạnh là một đứa bé Thái hồng hào, to gần gấp đôi con tôi. Mẹ tôi nhìn thấy con tôi bị quấn dây rợ y tế theo dõi khắp người, bé như cái kẹo và yếu ớt, gần như bật khóc vì xót cháu. Cho đến mãi bây giờ khi con tôi đã có thể chất khoẻ mạnh, bà ngoại vẫn hay nhắc lại và xót xa vì nó bé quá khi nằm trong lồng kính. 

Chúng tôi ở viện gần một tuần, được chăm sóc chu đáo. Trên đường đưa con về khu nhà tôi sống, rất nhiều hàng xóm người Thái Lan chúc mừng chúng tôi. Con ngõ nhỏ có thêm một em bé. 

***

Không lâu sau đó tôi nhận một nhiệm vụ mới từ công ty nên trở về Việt Nam. 

Một năm sau, thế giới đón tin dữ từ Trung Quốc với đại dịch covid. 

Tôi không hề biết rằng cuộc chia tay đất nước Thái Lan sẽ kéo dài như thế. Tôi và vợ cứ đinh ninh với điều kiện visa dễ dàng và khoảng cách địa lý thuận lợi, nếu thích thì vài tháng chúng tôi sẽ đi Thái một lần cũng được. Tôi muốn đưa con tôi quay về Thái Lan thường xuyên. Tuy vậy, dại dịch ập đến khiến thế giới đóng cửa với nhau, cái hẹn với Thái Lan mất vài năm mới thực hiện được. 

Khi con tôi bốn tuổi. 

Nghe tin Thái Lan mở cửa du lịch trở lại, tôi và vợ lập tức đăng ký đi ngay.

***

Mẹ ruột tôi rất yêu con tôi vì nó giống tôi như đúc. Tóc xoăn, thuận tay trái, lông mày xếch di truyền, không chệch đi đâu được. Con tôi cũng là một cat person giống tôi. Tình yêu của một người bà dường như là sự đánh thức lần nữa mang tính hoài niệm của tình mẫu tử mà họ từng có khi lần đầu ôm con mình ở tuổi thanh xuân. Đến cả tôi sau này, tôi cũng nghĩ sẽ thật là thú vị khi về già được ôm một thằng “Mìn bé” lần nữa.

Mẹ tôi đã ở cái tuổi cô đơn với cuộc đời. Nhưng mẹ từng kể cho tôi những lần thằng bé đi chợ cùng bà, tay lủng lẳng cái túi đựng đồ chơi mang theo. Tôi biết lúc đó mẹ tôi bớt cô đơn đi nhiều lắm, dù đi bên cạnh mình chỉ là một thằng bé vô lo nghĩ. Tôi cũng có cảm xúc như vậy trong một buổi chiều tàn, hai bố con ở trên nhà quá lâu nên xuống dưới chân toà nhà chung cư đi bộ cùng nhau một lúc. Tôi nắm tay thằng bé, cả hai lững thững đi những đoạn rất ngắn, tôi thấy hai cái bóng một cao một thấp thi thoảng trộn lẫn vào nhau. Chính lúc đó, tôi thấy cơ thể mệt mỏi này dãn ra và biết cuộc đời mình bấy lâu nay không còn cô đơn nữa. Có những lúc ta nhận ra con cái có thể giúp ta xoa dịu đi những u buồn tuổi trẻ, theo cái cách mà không một cuộc tình nào có thể làm nổi.

Tôi cũng hết sức ngạc nhiên khi nhìn thấy con trai mình lớn lên từng ngày, có cảm giác như nhìn thấy chính mình ở một chiều không gian khác. Hoá ra mình đã lớn lên như thế, rất nhiều lần tôi tự nói với chính mình như vậy. Tuổi thơ của tôi và con đương nhiên là khác nhau, nhưng có những lúc ở một khoảnh khắc ngọt ngào và huyền hoặc nào đó, nhìn thằng bé cười đùa hoặc lơ đãng chơi những trò chơi của nó, tôi thấy thân thuộc như thể tôi được trở về một vùng trời ký ức vốn đã quá xa xôi nhưng lại đang ở ngay trước mắt. Tôi nhìn thấy tôi.

Ta thấy em trong tiền kiếp với mặt trời lẻ loi
Ta thấy em đang ngồi hát khi rừng về nhiều mây

Vợ tôi vẫn đùa rằng anh coi thằng bé như “nàng Thơ” của mình. Tôi bật cười, nhưng ngẫm ra thì thật đúng. Thằng con tôi có những lúc lơ đễnh rất giống tôi. Một thằng bé thường xuyên lơ đễnh, và vợ tôi gọi nó là “đứa trẻ mơ mộng”. Từ bé tôi đã luôn luôn là đứa trẻ sống trong thế giới riêng của mình. Giờ đây, khi thấy con mình chìm trong thế giới của nó, dù vẫn ở bên cạnh tôi, tôi hoàn toàn hiểu được. Thời của tôi và chị tôi chưa có công nghệ như bây giờ để ghi lại nhiều khoảnh khắc, trái lại tôi muốn lưu giữ càng nhiều càng tốt sự thơ bé của con tôi, nên lúc nào tôi cũng có thể quay và chụp ảnh nó được. Vì quá giống nhau, tôi biết chính xác góc nào chụp thì đẹp, mái tóc của nó phải do đích thân tôi chải và tạo kiểu thì mới đẹp, vì tóc nó xoăn giống tôi.

Có lẽ thằng bé là nàng Thơ của tôi thật.

**

Vậy là khi Thái Lan mở cửa, tôi đưa cả gia đình mình về lại Bangkok. Lần cuối khi rời đi, tôi mang một thằng bé ba tháng tuổi trở về Việt Nam. Lần này khi quay lại, tôi đã là ông bố ba con khi có thêm một em bé mười sáu tháng tuổi nữa – em Đạn. Tranh thủ đợt dịch, và rất nhiều may mắn, chúng tôi đã kịp có thêm một em gái cho Mìn.

Chúng tôi háo hức mãi cho chuyến đi.

Việc nhập cảnh hết sức dễ dàng, hơn tôi tưởng. Các thủ tục tuy có nhiều hơn một chút nhưng chúng tôi không gặp khó khăn nào. Sân bay Suvarnabhumi không nhộn nhịp như trước dịch nhưng vẫn là cái mùi đó và những lộ trình đó. Chúng tôi biết chính xác phải ra đâu để kiểm tra hành lý của mình ở băng chuyền nào, lấy hành lý xong thì ra bên ngoài mua những chiếc sim du lịch của hãng Dtac và xuống dưới một tầng để đến khu vực bắt taxi. Địa điểm đến không đổi, vẫn là khách sạn ở khu tôi từng sống ba năm. Tôi biết ngay những khung đường nào sẽ tắc và đi đường cao tốc sẽ phải trả bao nhiêu baht. Lộ trình từ sân bay về khách sạn, đi qua những toà nhà cao tầng và các khu phức hợp nổi tiếng, tôi hình dung quãng thời gian bay đi bay lại thường xuyên giữa hai thành phố cách nhau gần hai giờ đồng bồ lênh đênh trên mây mà mình từng trải qua, chỉ giống như một quá khứ gần.

Sau bốn năm mọi thứ vẫn vậy. Về cơ bản. Trước khi về khách sạn chúng tôi đi qua toà nhà nơi công ty tôi từng đặt văn phòng. Con ngõ tôi sống vẫn có những người hàng xóm cũ. Thật biết ơn là dù trải qua một đợt dịch nhưng nhiều người tôi quen vẫn ở đó, kể cả hai bà lão rất già bán lạc rang và bán cháo mà vợ tôi thi thoảng nói chuyện hồi trước. Chú bán hoa quả dạo bên cạnh cửa hàng 7-Eleven, có thể nói được vài từ tiếng Việt vì chúng tôi mua nhiều quá, cũng còn ở đó (dù cửa hàng 7-Eleven không còn) và nhận ra gia đình chúng tôi, hết sức ngạc nhiên và thích thú khi nhìn thấy con trai tôi bây giờ.

Chúng tôi cũng đi thăm lại bệnh viện nơi con tôi sinh ra, mà mẹ vợ tôi bảo là nơi “Mìn chôn nhau cắt rốn”, hehe. Vì bệnh viện hạn chế ra vào do dịch, chúng tôi suýt nữa tưởng sẽ không gặp lại vị bác sỹ từng mổ cho vợ tôi nữa, nhưng cuối cùng bệnh viện sau khi nghe trình bày vẫn hỗ trợ chúng tôi liên lạc với vị bác sỹ kia để chúng tôi gặp mặt và cám ơn. Bác sỹ vẫn nhớ chúng tôi là người Việt Nam.

Một vài địa điểm đã không còn nữa, như khu chợ đêm yêu thích của chúng tôi hồi trước (Ratchada night market) và hiện được thay thế bởi một khu chợ đêm khác (Jodd Fairs). Nhưng cơ bản thì cuộc sống vẫn như nó vẫn thế, những gì thân thuộc không mất đi khi ta tìm lại chúng.

Con tôi đã bốn tuổi, thật ra chưa đủ lớn để ghi nhớ sâu sắc những chuyến đi mà nó trải qua; khác với Bom – con lớn của chúng tôi, đã gần bảy tuổi và nhớ rất tốt mọi thứ; nhưng rất nhiều khi đi qua những góc phố quen, tôi thầm thì giới thiệu cho con rằng đây là nơi bố mẹ từng đi đó.

Hãy tích luỹ cảm xúc và trải nghiệm cho những đứa trẻ, điều đó sẽ tốt cho hành trình hạnh phúc của chúng rất lâu sau này.

 

Viết tặng con nhân tháng sinh nhật.

Hanoi – Bangkok 6/2022

June 27, 2022  Leave a comment

Đi bộ

Cô gái bước từ quán cà phê sang bên vỉa hè mà tôi đang đi tới.

Cô nắm tay bạn trai. Họ đi ngay trước tôi một đoạn không xa. Tôi bước chậm lại, không hẳn là để quan sát họ mà chỉ muốn giữ cái riêng tư cho cả tôi và cặp đôi đó, bởi dẫu sao thì vỉa hè cũng không rộng lắm. Cô gái hơi cao một chút, anh thì hơn cô nửa cái đầu. Họ không nói nhiều lắm với nhau mà chỉ nắm tay đi bộ như vậy. Trông cả hai hoàn toàn thoải mái, có lẽ không phải mới quen nhau. Tôi vẫn thích nhìn các cặp đôi nắm tay nhau ngoài phố, tình yêu bình yên vậy thôi. Không lâu sau đó, cặp đôi rẽ trái ở một ngã ba, vẫn nắm tay khi qua đường. Tôi thì đi thẳng.

Khi ta nhìn ở khoảng cách đủ gần, một số thứ bỗng trở nên rõ ràng hơn.

***

Tôi lướt qua một cửa hàng bán đồ thú cưng ở bên kia đường, suýt nữa không để ý đến con một con mèo đang nằm ngoan ngoãn đằng sau cửa kính cửa hàng, bởi lẽ nhìn từ xa trông nó như một món đồ trang trí mà cửa hàng cố tình bày biện. Chỉ đến khi một người khách vừa gạt chân chống xe máy để bước vào cửa hàng và với tay ra chơi với nó, tôi mới biết là có con mèo thật ở đó. Đã khá lâu tôi không có lũ mèo bên cạnh. Kể từ khi có con, tôi cho đi gửi hết bọn mèo, và không lấy lại nữa. Trước đây chỉ có thời du học là tôi không có mèo thường xuyên bên cạnh (dẫu vậy, tôi vẫn nuôi một con mèo một thời gian ngắn trong quãng thời gian ở bên đó). Có những khoảng thời gian ta bơ vơ đến nỗi không có lấy một con mèo nào. Hiện tại thì tôi không như thế. Tuy thi thoảng thấy hơi thiếu thốn lũ mèo nhưng nhìn chung là tôi ổn, vì tôi có con bên cạnh. Vả lại, tôi biết chắc mình sẽ sớm nuôi lại mèo thôi, khi con của tôi muốn.

Murakami tuy yêu, nhưng lại không nuôi một con mèo nào. Điều đó không ngăn ông hiểu lũ mèo, cũng không ngăn lũ mèo giúp ông – bằng cách này hay cách khác – viết những tiểu thuyết thú vị.

***

Ở một góc phố đâu đó gần nhà, tôi nhìn thấy một ông bố đang dắt con mình đi chơi. Bỗng tôi thấy không hẳn là ghen tị nhưng làm tôi nhớ đến con trai mình. Tôi rất thích những lúc dắt tay nó đi chơi. Bàn tay nhỏ xíu của nó nằm gọn trong tay tôi. Cách mỗi ông bố đưa con mình vào thế giới đều giống như nhau. Ta nắm chặt bàn tay nhỏ xíu đó dìu dắt bước đi, từng bước từng bước, bàn tay trao cho ta tất cả sự dè dặt và tin cậy trên thế giới này, cho đến khi tự mình bước đi được.

Những giây phút đó, tôi chỉ cảm thấy không còn gì quan trọng với mình hơn nữa, bằng việc con trai tôi vui.

***

Một gia đình đang ăn tối muộn, tôi thoáng thấy khi đi qua căn nhà mặt đường không đóng cửa. Khu phố này vốn nhiều hàng quán, rất dễ để nhìn thấy những sự tụ họp thân mật của con người. Nếu ta để ý một chút, dù là lướt qua khi đi bộ mà hoàn toàn không phải ngoái lại nhìn, ta sẽ thấy cuộc sống thật sinh động mà không ồn ào. Ai cũng có việc của mình.

Đôi khi lững thững đi bộ, đóng vai một kẻ ngoài lề nhìn vào những thứ ngẫu nhiên xuất hiện trước mắt, trong một tâm trạng không hẳn là vui hay buồn, ta thấy điều mà ta muốn thấy. Và chúng sưởi ấm ta từ bên trong.

Murakami có một câu quote nổi tiếng: “Memories warm you up from the inside. But they also tear you apart”. Kỷ niệm sưởi ấm ta từ bên trong, nhưng cũng xé nát trái tim ta.

Nhưng dẫu sao, có kỷ niệm đã là tốt lắm rồi.

***

Một mình ở thành phố lạ.

Khi ta trẻ hơn, mỗi cơ hội một mình ở thành phố lạ là một lần ta tận hưởng sự cô đơn. Sự bơ vơ của tuổi trẻ đôi khi buồn đến rợn người. Tuổi trẻ lang thang, vô định, rất nhiều khi ta không định hướng được con đường trước mắt, và cả con đường tương lai. “Nghe buồn nhịp chân bơ vơ“, Trịnh từng viết như thế.

Lâu rồi tôi không còn thấy cô đơn. Kể cả khi một mình. Kể ra cũng hiếm khi một mình, nếu không đi công tác xa.

Khi có cơ hội một mình ở thành phố lạ như thế này, tôi chỉ làm mỗi một việc là lững thững đi bộ, và nhìn cuộc đời đầy ắp xung quanh.

Tôi không cảm thấy nỗi cô đơn là cần thiết như trước (hồi tôi trẻ hơn) khi ta có một chỗ để chờ ta, để đi về.

Nhân vật của Paul Auster cứ lang thang suốt ở New York. Patrick Modiano cũng để nhân vật của mình quanh quẩn khắp Paris. Cả hai đều là những kẻ lang thang vĩ đại, miêu tả gần như cặn kẽ từng góc phố, ngõ nhỏ, bờ kè, đại lộ ngoại vi, công viên, cảnh trí… như một bức tranh tả thực được tráng mờ đi bởi ký ức huyền hoặc.

Phải mất bao nhiêu ngày lang thang trong một thành phố để tất cả sự xa lạ này trở nên quá đỗi thân quen?

***

Hôm nay ta say ôm đời ngủ muộn

***

Mỗi phút giây, trên mỗi một dặm đường
Ta sẽ gửi một chút mình ở lại

June 1, 2022  Leave a comment

about happiness

Vì tình hình dịch nên tôi làm việc ở nhà hôm nay.

Trong lúc làm đồ ăn trưa, tôi nghe podcast Hieu.tv phần nói về hạnh phúc. Video này quả có khơi gợi một số suy nghĩ tích cực về cuộc sống. Tôi vừa ăn vừa nghe cho đến khi xong. Tôi hiếm khi chỉ ăn mà không làm gì khác; thường là xem Netflix, nghe nhạc, thậm chí đôi khi là làm việc. Cũng chỉ là một thói quen vô hại.

Ăn xong tôi dọn dẹp và pha cà phê. Vợ tôi tặng một chiếc máy pha espresso vào hôm sinh nhật năm nay, từ đó tôi luôn pha cà phê ở nhà. Tôi có hai công thức pha cà phê. Một kiểu giống Bà Nà của Reng Reng. Kiểu còn lại giống August của Drew Coffee. Thực ra thì chúng đều là cà phê kem béo vốn dựa nhiều vào whipping cream và sữa đặc, nhưng kiểu August có thêm sữa tươi và cà phê đổ vào hỗn hợp đánh bông bằng máy thay vì khuấy bằng tay như kiểu Bà Nà. Tuỳ vào hứng mà tôi sẽ pha kiểu này hoặc kiểu kia chứ không có kế hoạch cố định. Hôm nay thì tôi pha kiểu August, do tôi có nhiều thời gian hơn mọi ngày (vì làm việc ở nhà).

Tôi mang cà phê ra ghế papasan nằm đọc sách.

Hôm nay là ngày đầu tiên thành phố đón đợt lạnh mới tràn về trong đêm. Ngồi bên cửa sổ ở trên cao, nếu hé cửa sẽ thấy gió khô thổi vào khiến ta muốn mặc thêm áo ấm. Nhìn chung là một ngày chớm đông dễ chịu, rất hợp cho việc đọc. Lũ mèo hẳn sẽ uể oải chui vào một góc nằm ngủ cả ngày, nhưng xung quanh tôi không có con mèo nào.

Tôi đang đọc dở tiểu thuyết mới nhất của Murakami, Giết chỉ huy đội kỵ sĩ. Tôi chờ một thời gian sau khi cuốn sách này ra mắt mới tìm đọc, vì cũng chẳng vội. Đây vẫn là một tiểu thuyết “kiểu Murakami“. Một vấn đề với các nhà văn trở nên phổ biến và đại chúng hoá là người ta cứ thích đặt một kỳ vọng khó hiểu lên họ, rằng cuốn sau phải hay hơn cuốn trước, rằng họ phải đạt được các giải thưởng. Tôi cho rằng nhà văn kể những câu chuyện khác nhau và về cơ bản, mỗi câu chuyện có sức sống và ý nghĩa của nó. Trong trường hợp của Murakami, các tiểu thuyết sau này của ông không được đánh giá cao như các tiểu thuyết ở giai đoạn đầu sự nghiệp. Tức là nhiều người coi văn nghiệp là một quá trình và trong quá trình đó, người ta có xu hướng chọn một cột mốc gọi là đỉnh cao sự nghiệp của một nhà văn. Trước và sau cột mốc đó là giai đoạn đi lên và thoái trào. Với Murakami là đang ở giai đoạn sau. Đại khái là thế.

Tôi không nhìn văn nghiệp của một nhà văn theo lối như vậy. Đặt mình vào vai một người viết, điều tôi theo đuổi trong suốt cuộc đời mình đó là mình có nói ra được đầy đủ và trọn vẹn những tư tưởng của mình hay không. Tôi nghĩ suy nghĩ của nhà văn gần với vậy. Đối với họ, việc một tác phẩm này hay hơn tác phẩm khác không quá quan trọng. Điều quan trọng là trong toàn bộ văn nghiệp, họ đã nói được hết những thứ muốn nói, và nói được chúng theo cách tốt nhất đối với họ hay chưa. Tôi cho rằng động lực khiến cho một nhà văn tiếp tục viết, kể cả khi ở tuổi rất già và đã an nhàn từ lâu, hoặc khi danh tiếng đã lẫy lừng, ở việc họ còn muốn nói tiếp những điều phải nói.

Nếu tiếp cận trên quan điểm như vậy, ta sẽ tránh xu hướng so sánh các tác phẩm với nhau mà nhìn vào các thông điệp mà một nhà văn muốn truyền tải. Tôi không cho rằng sau 1Q84, Murakami viết kém hơn trên khía cạnh chất lượng tác phẩm. Ông đã nỗ lực kể những thứ tiếp theo. Tôi cho rằng Murakami trong văn nghiệp của mình đã tạo ra được một phong cách riêng, đó là “kiểu Murakami” siêu thực hậu hiện đại, từa tựa khái niệm Kafkaesque nổi tiếng. Trong văn nghiệp đó, mỗi tác phẩm có vai trò kể một thông điệp và hãy đánh giá năng lực kể thông điệp đó có đạt hay không.

Dông dài như vậy để nói rằng tôi thấy Giết kẻ chỉ huy (tôi thích gọi vậy cho gọn, và sẽ dùng tên này cho đến cuối bài) là một tiểu thuyết thú vị. Công bằng mà nói thì mạch truyện hấp dẫn một cách chậm rãi. Với ai đã quen với Murakami, tức là quen với motif nhân vật chính gặp biến cố lớn khiến cuộc sống trước đây của anh ta hoàn toàn đổ vỡ và bắt buộc dấn thân vào một hành trình đơn độc u tối để giải mã mình, sẽ thấy tiểu thuyết này không khó nắm bắt. Cách tốt nhất để đi vào thế giới của Murakami là hãy thả mình tự do cuốn trôi đi theo lời kể và tham gia vào hành trình của nhân vật. Từng chút một, những gì ta muốn biết sẽ được nói ra. Vậy thì việc gì phải vội?

Tiểu thuyết này là một ví dụ nhỏ cho lý do tôi thích đọc sách. Đôi khi ta chỉ muốn nghe một câu chuyện được kể thật cừ, trong một ngày gió lạnh giữa những trạm nghỉ của cuộc sống.

Và bất giác tôi suy nghĩ về hạnh phúc.

Anh Hieu.tv nói cuộc đời về cơ bản là hành trình tích luỹ thật nhiều ngày hạnh phúc. Tôi thấy suy nghĩ này rất hay, và đúng.

Tôi không hay nói về hạnh phúc của bản thân. Cuộc sống của tôi cũng không có gì quá đặc biệt hay nổi trội. Nhưng những năm gần đây, tôi thấy mình tích luỹ hạnh phúc thêm mỗi ngày.

Tôi thích viết và đọc, những thứ mà tôi chọn sẽ già đi cùng nhau, và qua đó tiêu tan đi các u buồn của tuổi trẻ. Nhưng càng ngày tôi càng có ít thời gian cho chúng. Giống như bất kỳ người trưởng thành nào, tôi dành hầu hết thời gian để làm việc và lo cho gia đình của mình. Nếu ở thời trẻ hơn, những thú vui cá nhân thật là quan trọng và giúp ta cân bằng; thì đến một lúc nào đó ta thấy vui khi san sẻ thời gian và sự chăm lo cho người khác ngoài bản thân ta. Điều quan trọng không phải tỷ trọng thời gian hay mức độ quan tâm giữa bản thân và cho người khác, mà những gì ta làm gột rửa đi bao nhiêu sự cô đơn trong cuộc đời này. Cô đơn là chất liệu của tuổi trẻ, tráng men cho sự vững chãi mà ta phải có để đứng được trong đời, và đôi khi đó là sự cô đơn cần thiết. Nhưng tôi nhận ra mình không còn là gã trai đơn độc hồi xưa nữa.

Kiểu nhân vật điển hình của Murakami là những gã đàn ông trung niên cô đơn, sắp xếp ngăn nắp cuộc sống của mình, không thực sự phụ thuộc vào các rào cản xã hội, gần như ngoài lề định kiến thông thường. Chính sự ngăn nắp và ngoài lề đó khiến trong nhiều trường hợp, khi hành trình mới ập đến cuốn đi, họ không mang theo gì cả. Trong hành trình đó, các nhân vật tích luỹ lại từng mảnh nhỏ của mình.

Quá trình của các nhân vật Murakami luôn là một quá trình hướng lên trên. Đó là điều tích cực trong văn chương của Murakami.

Tích luỹ hạnh phúc mỗi ngày là một hành trình cần thiết.

Tỷ như việc dành ít phút cho bản thân để pha cà phê hàng ngày.

Nằm đọc sách bên cửa sổ.

Hay dạo gần đây, tôi thích nhất khi ở cạnh con trai mình. Đi dạo với nó ở dưới sảnh toà nhà vào chiều tối, khi gió nổi lên, bóng của hai bố con một cao một thấp lẫn vào nhau. Tôi thấy mình của thơ bé và thấy mình của hiện tại, đồng thời.

Hoặc khi lùa được hết bọn nhỏ đi ngủ để tôi và vợ Netflix vội buổi tối, sau một ngày dài. Cùng nói với nhau về những cái hẹn Đà Lạt, Bangkok, Châu Âu – mục tiêu phấn đấu.

Và những điều nhỏ nhặt khác, bằng lòng hoặc không bằng lòng, trong cuộc sống đang diễn ra.

Một câu hát của Trịnh mà ta vẫn hay nghe. Cho đời chút ơn.

Có lẽ vậy.

221121

November 22, 2021  Leave a comment

lặng yên sau giông bão

Tôi 33 tuổi.

Mỗi năm muốn viết một chút khi tuổi mới đến. Tôi nghĩ tài sản lớn nhất của một người, không phải số tiền kiếm được hay các thành tựu, mà chính là các suy tưởng của họ. Suy tưởng là một thứ di sản.

Suy nghĩ, suy tưởng, ý tưởng, trí tuệ, đều chung một nghĩa, tựu chung lại là thứ tài sản thực sự cá nhân mà mỗi người có thể để lại trên đời. Người ta thích ý tưởng lên sao Hoả của Musk hơn là việc ông là cổ đông của tập đoàn ô tô giá trị nhất thế giới. Người ta thích Romain Gary, làm sao mà không thích được một tình yêu nồng nàn như Romain Gary?

Tự dưng tôi có một suy nghĩ, chỉ một hai năm nữa thôi là mình sẽ nằm trong tiêu chí loại trừ của rất nhiều công ty tuyển người trẻ (các loại công việc hay ghi ưu tiên người từ 27 đến 35 tuổi), nhưng ngược lại cũng nằm trong tiêu chí cộng của các công ty tuyển người dày dặn kinh nghiệm (các loại công việc cần tuyển người thâm niên lớn hơn 35 tuổi). Lý tưởng nhất của sự nghiệp là bạn bước ra khỏi một tiêu chí để đạt đến một tiêu chí khác. Nhưng sẽ thật tệ nếu bạn không còn nằm trong bất kỳ tiêu chí tuyển dụng nào. Tức là tôi còn từng ấy năm để quyết định sự nghiệp của mình có sang được một nấc mới hay rơi tõm vào đáy sâu của vùng ở giữa không thuộc về đâu cả. Mid-life crisis của rất nhiều người xảy ra khi bước vào transition time giữa hai giai đoạn đó và bị chối bỏ bởi tứ phía dập dồn.

Nhưng thật ra tôi không quá quan tâm.

Ở cái tuổi này, mà người ta hay nói “không quá trẻ để bla bla, không có già để bla bla”, tôi nhận ra; so với mấy năm trước khi mới ba mươi; các triết lý cuộc đời, mindset, lý tưởng sống, cái mình theo đuổi, đã dần dần xây dựng. Cũng có thể nhiều thứ sẽ thay đổi, thế giới quan và cách ta suy nghĩ cũng thay đổi theo, ai biết trước được, nhưng tôi không còn hỏi mình một loạt các câu hỏi cuộc đời “tôi là ai”, “tôi muốn trở thành gì”, “tại sao…” như hồi trước nữa. Có những câu hỏi đã tìm ra trả lời, có câu hỏi left unanswered, better be that way, có những câu hỏi trở nên không còn đúng nữa. Có những câu hỏi trước kia, vào một lúc nào đó quan sát ông con lớn lên dần và người vợ của mình sống bên cạnh hàng ngày, câu hỏi ấy tự biến mất, trở thành một khẳng định. Cuộc đời không phải là cứ đi tìm các câu trả lời khác nhau cho các câu hỏi. Cuộc đời là để đi tìm lời khẳng định.

Nghe như lời trong cuốn sách Đi tìm lẽ sống của Viktor Emil Frankl, một cuốn sách đầy cảm động từ một nạn nhân sống sót qua trại tị nạn và đợt diệt chủng của phát xít Đức. Người ta phải qua biến cố mới hiểu bản thân, tôi nghĩ là điều này đúng.

Những biến cố đẩy ta vào sâu hơn con người mình.

Có lẽ tôi là kiểu người chẳng bao giờ thoả mãn với tất cả các sự ghi nhận từ bên ngoài. Tôi chỉ thoả mãn khi bản thân mình ghi nhận mình từ bên trong. Cố nhiên, tôi không biết điều này quá sớm, thành ra bao nhiêu năm cố gắng chạy theo các thành tích phù du, theo các tiêu chuẩn xã hội và nhận ra mình không thực sự thấy tốt lắm kể cả khi đạt được cái này cái kia, tôi mới hiểu điều đó hoàn toàn không quá quan trọng với mình.

Mỗi khi lái xe và thấy trái tim mình vẫn xao xuyến với lời ca của Trịnh, hoặc một câu hát hoang đàng da diết của Lê Uyên Phương, tôi thấy mình mới là đang sống đến trọn cùng.

Xin cho yêu em nồng nàn
Xin cho yêu em nồng nàn
Dù tháng năm buồn vui bàng hoàng

Hay như khi lặng yên bên nhau sau giông bão, sau những niềm vui không nói nổi nên lời, nhìn con mình ngủ say sau một chập khóc hờn, mệt mỏi, chúng tôi thấy tình yêu vô thanh, vô ưu, tự bao giờ.

Những điều thực sự quan trọng với mình.

Những tiêu chuẩn của bản thân.

Tôi nghĩ cuộc đời là cuộc hành trình đi về với chính mình, tìm cho mình các cơ hội để thấu hiểu bản thân, và qua đó tìm được đến sự hài lòng.

Nên đừng quên chăm lo cho các thú vui tinh thần của mình, các thú vui sẽ cùng mình trưởng thành lên và già đi.

Cũng như những người đi cùng mình trên hành trình đó, may làm sao, hành trình đó không hề là một hành trình đơn độc.

Thêm một tuổi nữa cùng em.

Em
Kề vai tôi ngồi bên thềm
Bỏ lại đằng sau
Những khúc quanh co
Và cám dỗ để quay về
060720

July 6, 2020  Leave a comment

« older posts newer posts »