cần deep talk

CHỮA LÀNH

Cần hít thở không khí nên tôi ra khỏi khách sạn đi bộ một chút. Khu vực này vốn nhiều căn hộ và nhà hàng nên không hẳn là vắng lắm, tôi lánh vào một con ngõ dài và tối để có thể hưởng chút một mình. Khánh Ly đang hát Ta thấy gì đêm nay, tôi nghe Trịnh từ chiếc điện thoại mang theo.

Chỉ có khi đi công tác tôi mới có thời gian hiếm hoi để đi bộ một mình và nghe nhạc buổi tối. Dạo này Trịnh Công Sơn bỗng rộ lên từ cái bộ phim kể về ông. Tôi không xem phim Việt nên không biết bộ phim ra sao, nhưng những xôn xao xung quanh thật là phiền phức. Trịnh là một nghệ sĩ và chỉ là một nghệ sĩ mà thôi. Sự cô đơn của ông khắc khoải đến nỗi chỉ có thể gửi gắm vào âm nhạc để nói lên cõi lòng mình. Rồi cái âm nhạc ấy chạm thẳng đến ta, ở tầng sâu kín nhất, xoa dịu cho ta nỗi buồn và bơ vơ trong cuộc đời này. Hãy cứ nghe âm nhạc của Trịnh và lắng nghe cõi lòng mình bộc bạch, bận tâm những chuyện xung quanh chẳng phải quá mất sức hay sao?

Nhìn những mùa thu đi
Em nghe sầu lên trong nắng

Trong một ngày lòng mình bình thản, nghe Khánh Ly hát câu này cảm thấy thật trác tuyệt. Chúng ta nên giữ một thái độ như vậy với cuộc đời, cứ bình thản nhìn nó trôi đi thôi…

Chữa lành – cụm này đang là xu hướng của thời đại. Dường như ai cũng có vấn đề tâm lý, dường như ai cũng đang hộc tốc để được chữa lành. Tại sao lại vậy? Tại sao những người trưởng thành hiện nay dường như lại cần chữa lành nhiều đến thế?

Tôi nghĩ rằng vì chúng ta đã sống hàng ngày mà thiếu đi những cuộc nói chuyện sâu (deep talk).

Deep talk là những cuộc nói chuyện khiến ta có thể bộc bạch toàn bộ, hoặc gần như toàn bộ, nỗi lòng mình. Không che dấu, không mặt nạ, mang tính chất giải phóng tuyệt đối. Đó là nhu cầu chia sẻ cơ bản của con người. Nhưng lâu nay đã không còn nữa.

Làm sao có thể deep talk khi phần lớn giao tiếp trong ngày của chúng ta là dành cho những cuộc họp, những phân tích, những cơm áo gạo tiền?

Làm sao có thể deep talk với những con người ta gặp và phần lớn là chán ghét, hoặc ít trầm trọng hơn, không hẳn là thân thiết lắm, và cơ bản là không hiểu gì về nhau.

Làm sao có thể nói với họ về giấc mơ của ta, về nỗi buồn của ta.

Làm sao có thể deep talk được nữa sau khi chiến đấu với cuộc đời ngoài kia, vốn dĩ đã mệt nhoài khi về nhà, ta chỉ có thể ngủ để chuẩn bị sáng mai tiếp tục cho một cuộc chiến đấu nữa.

Deep talk hầu hết là hoạt động đầu tiên của chữa lành. Các chuyên gia sẽ tìm cách kết nối với đối phương bằng trò chuyện, giao tiếp, gợi mở, và đẩy câu chuyện đi vào sâu sắc để đối phương bộc lộ được ra. Cũng tức là khai thác cái nhu cầu được nói, được mở lòng, được tuôn trào bản thân vốn đã giữ kín bấy lâu nay.

Khai thác một nhu cầu cơ bản, nhưng con người đã vô tình bị tước đi trong xã hội này.

Deep talk giống như sức khoẻ – lúc trẻ chúng ta bán sức khoẻ để lấy tiền, về già lại dùng tiền cầu mua lại được sức khoẻ.

Chúng ta từng deep talk rất nhiều, rất lâu, với rất hữu hạn người trong phần lớn thời gian mỗi ngày ta sống.

Rồi chúng ta rời bỏ các cuộc deep talk ấy để vùi mình vào các cuộc nói chuyện thực dụng với những người chúng ta không yêu quý lắm, phần lớn thời gian trong ngày/tuần/tháng/năm. Rồi khi nhu cầu deep talk ập đến, ta cuống cuồng tìm lại thì không thấy những người thân kia ở sẵn đây nữa. Chúng ta trầm cảm dần. Chúng ta tìm đến các chuyên gia chữa lành, để chữa các vấn đề đáng ra rất dễ giải quyết.

Một cuộc nói chuyện sâu sắc thực sự luôn thức tỉnh chúng ta, mang lại cho ta năng lượng để sống tiếp với cuộc đời thật đẹp này.

Vợ chồng thì nên deep talk thường xuyên với nhau. Bạn bè cũng vậy.

Đừng để đến khi phải tìm các chuyên gia chữa lành làm việc đó thay cho người mà ta yêu mến.

July 1, 2022  Leave a comment

“Nàng thơ” của Bố

Con trai tôi sinh ra tại Bangkok, một mùa hè bốn năm về trước.

Về sau này, tôi sẽ kể cho nó về “gốc gác Thái Lan” của nó. Tất nhiên, việc sinh ra ở Thái Lan không biến nó thành một người Thái gốc Việt được – nhất là khi nó chỉ ở đó đúng ba tháng rồi về Việt Nam; nhưng tôi muốn con biết Thái Lan là nơi mà bố mẹ nó đã sống quãng thời gian tuyệt vời của tự do tuổi trẻ, rồi sau đó mang thai, hạ sinh và đưa con về Việt Nam; mà mỗi ngày kể từ khi trở về không lúc nào chúng tôi không mong mỏi được quay lại mảnh đất đó.

Thằng bé sinh ngày mùng 7 tháng sáu. Ngay từ trong ngày sinh đã là sự đối ngược với ông bố nó là tôi (mùng 6 tháng bảy). Vì vợ tôi đẻ mổ, vị bác sỹ Thái Lan sau khi tính toán tuần sinh đã đề nghị ngày sinh đó cho vợ chồng tôi. Tôi đồng ý ngay, cũng như chấp nhận ngay việc ông con chắc chắn sẽ xung khắc với mình. Vốn dĩ là một truyền thống gia đình, đàn ông trong nhà tôi mấy đời đều xung khắc, không lấy gì làm hoà thuận cho lắm.

Đó là chưa kể tôi tuổi Mèo, còn ông con tuổi Cún. Vậy đó.

Từ bé nó đã là một đứa trẻ cá tính mạnh, không chịu khuất phục. Tôi nhìn thấy trước tương lai xung khắc nên trong hiện tại, không cách nào khác, tôi cố gắng để yêu nó nhất có thể, khi thằng bé còn đang cần mình.

Sau này lớn lên, thằng bé sẽ dần tiến đến thế giới rộng lớn của nó. Nhưng ngay lúc này đây, có những ngày đi làm về, thằng bé rạng rỡ chạy ra đón; hoặc khi nó ngủ dậy ở nhà ông ngoại mà không thấy tôi sẽ mếu máo đòi tìm tôi bằng được và khi nhìn thấy thì ôm chặt lấy bố vì “sợ bố đi mất”, làm tôi muốn khóc. Frédéric Beigbeder nói mọi ông bố đều giống một gã ngốc hạnh phúc, quả là không sai. Tôi bỗng trở nên uỷ mị từ khi làm bố, có khi chỉ từ một cái ôm ghì của ông con sau vài tiếng không gặp. Chả hiểu sao thấy mình dễ mủi lòng vô cùng.

***

Tôi đã trì hoãn việc có con khá lâu.

Thực tế tôi từng nghĩ mình có thể sẽ không bao giờ làm bố. Và tôi thấy ổn với suy nghĩ đó. Khi ta trẻ hơn, ta thường tiên lượng về cuộc đời mình không hẳn là chính xác. Tôi không có hình mẫu về người bố lý tưởng để noi gương theo, việc mà tôi nghĩ tương đối quan trọng đối với một gã trai trẻ. Ai cũng cần hình mẫu để noi theo, trong trường hợp của tôi thì không như vậy, nên tôi không biết như thế nào là một người bố tốt. Cái suy nghĩ gần như biết chắc mình sẽ là một ông bố tệ không hiểu sao cứ ghim vào đầu tôi như một cách mặc định, vậy nên tôi cố để không trở thành bố càng lâu càng tốt.

Ấy thế mà cuối cùng tôi cũng có con.

Tôi hoàn toàn không chuẩn bị gì để làm bố, kể cả khi đã trở thành. Cho đến tận bây giờ, khi đã có ba đứa con, làm những công việc của một ông bố hàng ngày và vui vẻ với điều đó, tôi tự biết là mình vẫn chưa bao giờ sẵn sàng và hoàn toàn không chuẩn bị gì cả. Tôi cũng chưa từng cố gắng để làm một ông bố “chuyên nghiệp” – theo ý nghĩa là trang bị kiến thức và kỳ năng bài bản, phù hợp với tiêu chuẩn văn minh. Tôi trở thành bố một cách hoàn toàn bản năng, và đương nhiên, phần nhiều vụng về.

Riêng về điều này vợ tôi lại giỏi vô cùng. Nàng tìm hiểu tất cả mọi thứ về mang thai và nuôi dạy trẻ một cách nhẹ nhàng, khoa học. Tôi tin tưởng tuyệt đối, và từ đó dựa dẫm hoàn toàn, vào vợ tôi trong vấn đề con cái. Phụ nữ khi làm mẹ có năng lực siêu nhiên, điều này không thể đúng hơn. Tôi thán phục và cũng không hẳn là ghen tị nhưng chấp nhận một sự thật là các con của tôi yêu mẹ nó hơn nhiều. Tôi hài lòng với mức độ tình yêu mà con dành cho mình, ở vị trí số hai. Cũng không hẳn là tệ.

Nếu tôi trở thành một ông bố tốt, chắc chắn là do vợ tôi huấn luyện và giúp đỡ chứ để tự tôi thì e rằng quá xa vời. Và cũng bởi vì vợ tôi, việc trở thành bố hoá ra không quá đáng sợ như tưởng tượng, bởi cái gì khó nhất thì nàng đã làm hết rồi.

Tuy con tôi yêu mẹ nó hơn, tôi vẫn được hưởng hạnh phúc đầy đủ của một ông bố. Tôi rất hài lòng trước sự tin cậy mà con trai tôi dành cho tôi. Tôi là kiểu chỉ cảm thấy thoả mãn về mặt tình cảm khi người khác tin cậy mình, và càng thích hơn khi sự tin cậy đó đến từ một đứa bé, hay một con mèo – những đối tượng không hề dễ để lấy được sự tin cậy tự nhiên của chúng. Đừng có nghĩ làm một con mèo, hay một đứa bé, tin cậy mình là dễ nhé. Cứ thử mà xem.

Bởi vậy tôi vẫn là một gã ngốc hạnh phúc. Và bởi vậy, từ khi có con, tôi không nghĩ trong cuộc đời này còn có gì quan trọng hơn việc con tôi vui vẻ mỗi ngày (và ăn xong bát cơm).

***

Con trai tôi không tình cờ sinh ra ở Thái Lan. Vì tôi đang đi công tác dài hạn nên chúng tôi nghĩ tốt nhất là sinh ở đó cho dễ xoay xở giữa công việc và gia đình. Thêm nữa, sau hai năm sống ở Thái Lan, chúng tôi thực sự cảm mến đất nước này – nơi đã chữa lành và mang lại rất nhiều kỷ niệm. Nếu cơ hội cho phép chúng tôi còn muốn được tiếp tục sống tại Thái Lan nhiều năm hơn nữa.

Đó là khoảng thời gian tôi cảm thấy mình phát triển nhất trong công việc. Có lẽ không chỉ tôi mà cả team của tôi. Chưa nhiều doanh nghiệp công nghệ Việt Nam tiến sang thị trường Thái Lan lúc bấy giờ (bây giờ thì đã phổ biến hơn). Hầu hết đội ngũ chúng tôi còn trẻ, chưa vướng bận gia đình, còn sung sức và nhiệt huyết, tất cả đều sục sôi một tinh thần khởi nghiệp Việt Nam tại thị trường nước ngoài, rất đáng tự hào. Chúng tôi đã sống với nhau, làm việc cùng nhau, vui vẻ với nhau, tiếc nuối với nhau, và hầu hết đều có những kỷ niệm đẹp một thời mang chuông đi đánh xứ người. Tôi đã có nhiều anh em bạn bè bên ngoài công việc sau khi là đồng đội sát cánh với nhau nhiều năm. Những mối quan hệ lành mạnh, tốt đẹp.

Tôi không còn tìm lại được cái nhiệt huyết hồi đó nữa trong các công việc sau này mình làm. Có những thứ chỉ đến một lần, và ở lại mãi.

***

Tôi sống suốt ba năm trong một con ngõ nhỏ vùng rìa Bangkok, để đi lên trung tâm phải qua bốn trạm BTS. Con ngõ này có nhiều dân lao động và nhiều người đạo Hồi sinh sống, hết sức mến khách và thân thiện. Công ty cách đó không xa, mười phút đi bộ là tới. Quán ăn trong ngõ không nhiều nhưng đều phục vụ các món Thái theo kiểu bản địa, chúng tôi vẫn hay ăn trưa ở đó, hoặc khi đi làm về muộn thì là ăn đêm. Tôi sống ở đó đủ lâu, sống lẫn với cuộc sống của người bản địa, nên rất nhanh không còn cảm giác mình là du khách nữa mà đã thực sự sống cuộc sống đời thường trong một cuộc đồng nhỏ những người bản địa.

Có đứa bé Thái sinh ra trong quãng tôi sống ở đó và nhìn nó lớn lên, ít nhất cho đến khi biết đi chập chững. Tôi nhớ bọn mèo hoang ở đó, đêm nào cũng nằm ườn èo trên bờ đê đầu ngõ, không hề sợ hãi những đám người ồn ào nhậu nhẹt bên cạnh. Những hôm trời mưa, chúng lẩn vào bên trong cửa những ngôi nhà ven đường, nhẫn nại nhìn mưa ngoài phố vắng cho đến khi tạnh hẳn để lại vật vờ lao vào màn đêm. Tôi thích một con mèo trắng to lớn ở đó, trông lúc nào cũng lờ đờ và cáu kỉnh, mà có lần tôi mua đồ ở cửa hàng tiện lợi cho nó ăn. Tôi để cả túi hạt mèo ở dưới đất, sáng hôm sau thấy chiếc túi bị rách nát và hạt thì hết sạch. Lũ mèo chắc đã có một bữa no.

Xung quanh khu tôi sống có tương đối đầy đủ tiện ích cơ bản, từ giao thông cho đến mua sắm. Nếu đi bộ trong vòng mười phút, ở khu bên kia nếu lấy công ty tôi làm trung điểm, có rất nhiều điểm thú vị mà chỉ người dân bình thường mới tìm thấy được. Ở đó có quán cơm gà vỉa hè ngon-nhất-Bangkok, do hai cha con người Thái mở bán buổi trưa cho dân văn phòng xung quanh. Người thanh niên xăm kín mình những hình xăm của Thái, rất giang hồ tứ chiếng nhưng thực chất lại cực kỳ tử tế, luôn hết sức cố gắng phục vụ đám khách quen người nước ngoài ồn ào. Quán vỉa hè có món hơi giống cơm gà Hải Nam nhưng ngon hơn nhiều lần, dù cách chế biến vô cùng đơn giản – chỉ có gà được luộc kỹ bằng nước sương, ăn cùng cơm trắng và có nước sốt chế biến riêng. Rất nhiều buổi trưa, niềm vui của dân văn phòng bình thường chúng tôi là ăn cơm gà rồi đi bộ sang một quán cà phê ngay góc đường bên cạnh – quán Bevanda. Quán rất nhỏ chỉ để vừa hai bộ bàn ghế cho lượng khách hữu hạn, nhưng khu vườn xung quanh lại rộng rãi và có nhiều cây nên chúng tôi ngồi đó tán phét giữa buổi trưa mùa hè Bangkok vẫn thấy dễ chịu. Cô chủ quán thân thiện, dễ mến; chị em phụ nữ kháo nhau rằng cô chủ này toàn mặc những chiếc váy giá 20.000 baht, nên hẳn là cô mở quán cà phê cho vui. Nếu đi thêm một đoạn rẽ vào khu dân sinh, chúng tôi cũng tìm được một quán ăn gia đình của người Thái, nơi phục vụ món canh Tom yum xuất sắc. Vì đám khách người Việt đến quá thường xuyên, menu của quán cuối cùng có thêm cả tiếng Việt, và chúng tôi gọi đó là “quán VIP”. Rất không xa quán đó là một khu trung tâm thương mại nhộn nhịp Robinson – nơi chúng tôi hay đi chợ mua đồ ăn vào cuối tuần. Đối diện với khu đó có một quán Vịt Tàu gia truyền nổi danh, có lịch sử cả trăm năm, không gian bên trong cổ xưa đến mức thời gian dường như không trôi đi tại đây nữa. 

Đó là khu tôi sống ở Bangkok – một khu bản địa bình thường thường, và nơi con tôi đã sinh ra – chính xác từ một bệnh viện rất gần nhà, bệnh viện Saint Louis – tuy trông không quá sang trọng nhưng là một bệnh viện trung lưu của người Công Giáo, phải đến khi mấy đứa nhân viên người Thái của tôi nói thì tôi mới biết bệnh viện này không phải phổ thông cho lắm. Đó cũng là lần đầu tôi và vợ trải nghiệm dịch vụ y tế của Thái Lan. Tôi có một tuần trong viện chăm vợ sinh, gần như không phải làm gì vì mọi thứ có y tá và bác sỹ lo cho hết.

***

Thằng bé bị nhẹ cân và thân nhiệt thấp nên bác sỹ cho theo dõi trong lồng kính hai ngày mới trả về. Chỉ khoảng chưa đến ba mươi phút từ khi vợ tôi được kéo vào phòng mổ, có một chiếc xe đẩy trẻ sơ sinh do y tá đưa ra. Lúc chiếc xe đi lướt qua tôi và mẹ vợ, tôi không biết đó là con mình. Tuy vậy, nhìn thấy đứa bé tôi vẫn tò mò đọc thử tên sản phụ trên xe đẩy thì mới biết. Tôi vội vàng báo cho mẹ và chạy theo xe đẩy của y tá đến phòng chăm sóc dành cho trẻ sơ sinh. Trống ngực đập thình thịch. Cho đến mãi lúc đó, tôi vẫn thấy không thể tin nổi. Con tôi đã đến thế giới này!

Thằng bé được đưa vào phòng chăm sóc sau sinh, nơi cũng có vài đứa trẻ khác vừa ra đời. Căn phòng oe oe tiếng trẻ con khóc. Âm thanh vô tội khởi nguồn của sự sống tại căn phòng đó thật là kỳ diệu, khiến ta thổn thức ngay lập tức. Ngay bên cạnh là một đứa bé Thái hồng hào, to gần gấp đôi con tôi. Mẹ tôi nhìn thấy con tôi bị quấn dây rợ y tế theo dõi khắp người, bé như cái kẹo và yếu ớt, gần như bật khóc vì xót cháu. Cho đến mãi bây giờ khi con tôi đã có thể chất khoẻ mạnh, bà ngoại vẫn hay nhắc lại và xót xa vì nó bé quá khi nằm trong lồng kính. 

Chúng tôi ở viện gần một tuần, được chăm sóc chu đáo. Trên đường đưa con về khu nhà tôi sống, rất nhiều hàng xóm người Thái Lan chúc mừng chúng tôi. Con ngõ nhỏ có thêm một em bé. 

***

Không lâu sau đó tôi nhận một nhiệm vụ mới từ công ty nên trở về Việt Nam. 

Một năm sau, thế giới đón tin dữ từ Trung Quốc với đại dịch covid. 

Tôi không hề biết rằng cuộc chia tay đất nước Thái Lan sẽ kéo dài như thế. Tôi và vợ cứ đinh ninh với điều kiện visa dễ dàng và khoảng cách địa lý thuận lợi, nếu thích thì vài tháng chúng tôi sẽ đi Thái một lần cũng được. Tôi muốn đưa con tôi quay về Thái Lan thường xuyên. Tuy vậy, dại dịch ập đến khiến thế giới đóng cửa với nhau, cái hẹn với Thái Lan mất vài năm mới thực hiện được. 

Khi con tôi bốn tuổi. 

Nghe tin Thái Lan mở cửa du lịch trở lại, tôi và vợ lập tức đăng ký đi ngay.

***

Mẹ ruột tôi rất yêu con tôi vì nó giống tôi như đúc. Tóc xoăn, thuận tay trái, lông mày xếch di truyền, không chệch đi đâu được. Con tôi cũng là một cat person giống tôi. Tình yêu của một người bà dường như là sự đánh thức lần nữa mang tính hoài niệm của tình mẫu tử mà họ từng có khi lần đầu ôm con mình ở tuổi thanh xuân. Đến cả tôi sau này, tôi cũng nghĩ sẽ thật là thú vị khi về già được ôm một thằng “Mìn bé” lần nữa.

Mẹ tôi đã ở cái tuổi cô đơn với cuộc đời. Nhưng mẹ từng kể cho tôi những lần thằng bé đi chợ cùng bà, tay lủng lẳng cái túi đựng đồ chơi mang theo. Tôi biết lúc đó mẹ tôi bớt cô đơn đi nhiều lắm, dù đi bên cạnh mình chỉ là một thằng bé vô lo nghĩ. Tôi cũng có cảm xúc như vậy trong một buổi chiều tàn, hai bố con ở trên nhà quá lâu nên xuống dưới chân toà nhà chung cư đi bộ cùng nhau một lúc. Tôi nắm tay thằng bé, cả hai lững thững đi những đoạn rất ngắn, tôi thấy hai cái bóng một cao một thấp thi thoảng trộn lẫn vào nhau. Chính lúc đó, tôi thấy cơ thể mệt mỏi này dãn ra và biết cuộc đời mình bấy lâu nay không còn cô đơn nữa. Có những lúc ta nhận ra con cái có thể giúp ta xoa dịu đi những u buồn tuổi trẻ, theo cái cách mà không một cuộc tình nào có thể làm nổi.

Tôi cũng hết sức ngạc nhiên khi nhìn thấy con trai mình lớn lên từng ngày, có cảm giác như nhìn thấy chính mình ở một chiều không gian khác. Hoá ra mình đã lớn lên như thế, rất nhiều lần tôi tự nói với chính mình như vậy. Tuổi thơ của tôi và con đương nhiên là khác nhau, nhưng có những lúc ở một khoảnh khắc ngọt ngào và huyền hoặc nào đó, nhìn thằng bé cười đùa hoặc lơ đãng chơi những trò chơi của nó, tôi thấy thân thuộc như thể tôi được trở về một vùng trời ký ức vốn đã quá xa xôi nhưng lại đang ở ngay trước mắt. Tôi nhìn thấy tôi.

Ta thấy em trong tiền kiếp với mặt trời lẻ loi
Ta thấy em đang ngồi hát khi rừng về nhiều mây

Vợ tôi vẫn đùa rằng anh coi thằng bé như “nàng Thơ” của mình. Tôi bật cười, nhưng ngẫm ra thì thật đúng. Thằng con tôi có những lúc lơ đễnh rất giống tôi. Một thằng bé thường xuyên lơ đễnh, và vợ tôi gọi nó là “đứa trẻ mơ mộng”. Từ bé tôi đã luôn luôn là đứa trẻ sống trong thế giới riêng của mình. Giờ đây, khi thấy con mình chìm trong thế giới của nó, dù vẫn ở bên cạnh tôi, tôi hoàn toàn hiểu được. Thời của tôi và chị tôi chưa có công nghệ như bây giờ để ghi lại nhiều khoảnh khắc, trái lại tôi muốn lưu giữ càng nhiều càng tốt sự thơ bé của con tôi, nên lúc nào tôi cũng có thể quay và chụp ảnh nó được. Vì quá giống nhau, tôi biết chính xác góc nào chụp thì đẹp, mái tóc của nó phải do đích thân tôi chải và tạo kiểu thì mới đẹp, vì tóc nó xoăn giống tôi.

Có lẽ thằng bé là nàng Thơ của tôi thật.

**

Vậy là khi Thái Lan mở cửa, tôi đưa cả gia đình mình về lại Bangkok. Lần cuối khi rời đi, tôi mang một thằng bé ba tháng tuổi trở về Việt Nam. Lần này khi quay lại, tôi đã là ông bố ba con khi có thêm một em bé mười sáu tháng tuổi nữa – em Đạn. Tranh thủ đợt dịch, và rất nhiều may mắn, chúng tôi đã kịp có thêm một em gái cho Mìn.

Chúng tôi háo hức mãi cho chuyến đi.

Việc nhập cảnh hết sức dễ dàng, hơn tôi tưởng. Các thủ tục tuy có nhiều hơn một chút nhưng chúng tôi không gặp khó khăn nào. Sân bay Suvarnabhumi không nhộn nhịp như trước dịch nhưng vẫn là cái mùi đó và những lộ trình đó. Chúng tôi biết chính xác phải ra đâu để kiểm tra hành lý của mình ở băng chuyền nào, lấy hành lý xong thì ra bên ngoài mua những chiếc sim du lịch của hãng Dtac và xuống dưới một tầng để đến khu vực bắt taxi. Địa điểm đến không đổi, vẫn là khách sạn ở khu tôi từng sống ba năm. Tôi biết ngay những khung đường nào sẽ tắc và đi đường cao tốc sẽ phải trả bao nhiêu baht. Lộ trình từ sân bay về khách sạn, đi qua những toà nhà cao tầng và các khu phức hợp nổi tiếng, tôi hình dung quãng thời gian bay đi bay lại thường xuyên giữa hai thành phố cách nhau gần hai giờ đồng bồ lênh đênh trên mây mà mình từng trải qua, chỉ giống như một quá khứ gần.

Sau bốn năm mọi thứ vẫn vậy. Về cơ bản. Trước khi về khách sạn chúng tôi đi qua toà nhà nơi công ty tôi từng đặt văn phòng. Con ngõ tôi sống vẫn có những người hàng xóm cũ. Thật biết ơn là dù trải qua một đợt dịch nhưng nhiều người tôi quen vẫn ở đó, kể cả hai bà lão rất già bán lạc rang và bán cháo mà vợ tôi thi thoảng nói chuyện hồi trước. Chú bán hoa quả dạo bên cạnh cửa hàng 7-Eleven, có thể nói được vài từ tiếng Việt vì chúng tôi mua nhiều quá, cũng còn ở đó (dù cửa hàng 7-Eleven không còn) và nhận ra gia đình chúng tôi, hết sức ngạc nhiên và thích thú khi nhìn thấy con trai tôi bây giờ.

Chúng tôi cũng đi thăm lại bệnh viện nơi con tôi sinh ra, mà mẹ vợ tôi bảo là nơi “Mìn chôn nhau cắt rốn”, hehe. Vì bệnh viện hạn chế ra vào do dịch, chúng tôi suýt nữa tưởng sẽ không gặp lại vị bác sỹ từng mổ cho vợ tôi nữa, nhưng cuối cùng bệnh viện sau khi nghe trình bày vẫn hỗ trợ chúng tôi liên lạc với vị bác sỹ kia để chúng tôi gặp mặt và cám ơn. Bác sỹ vẫn nhớ chúng tôi là người Việt Nam.

Một vài địa điểm đã không còn nữa, như khu chợ đêm yêu thích của chúng tôi hồi trước (Ratchada night market) và hiện được thay thế bởi một khu chợ đêm khác (Jodd Fairs). Nhưng cơ bản thì cuộc sống vẫn như nó vẫn thế, những gì thân thuộc không mất đi khi ta tìm lại chúng.

Con tôi đã bốn tuổi, thật ra chưa đủ lớn để ghi nhớ sâu sắc những chuyến đi mà nó trải qua; khác với Bom – con lớn của chúng tôi, đã gần bảy tuổi và nhớ rất tốt mọi thứ; nhưng rất nhiều khi đi qua những góc phố quen, tôi thầm thì giới thiệu cho con rằng đây là nơi bố mẹ từng đi đó.

Hãy tích luỹ cảm xúc và trải nghiệm cho những đứa trẻ, điều đó sẽ tốt cho hành trình hạnh phúc của chúng rất lâu sau này.

 

Viết tặng con nhân tháng sinh nhật.

Hanoi – Bangkok 6/2022

June 27, 2022  Leave a comment

Đi bộ

Cô gái bước từ quán cà phê sang bên vỉa hè mà tôi đang đi tới.

Cô nắm tay bạn trai. Họ đi ngay trước tôi một đoạn không xa. Tôi bước chậm lại, không hẳn là để quan sát họ mà chỉ muốn giữ cái riêng tư cho cả tôi và cặp đôi đó, bởi dẫu sao thì vỉa hè cũng không rộng lắm. Cô gái hơi cao một chút, anh thì hơn cô nửa cái đầu. Họ không nói nhiều lắm với nhau mà chỉ nắm tay đi bộ như vậy. Trông cả hai hoàn toàn thoải mái, có lẽ không phải mới quen nhau. Tôi vẫn thích nhìn các cặp đôi nắm tay nhau ngoài phố, tình yêu bình yên vậy thôi. Không lâu sau đó, cặp đôi rẽ trái ở một ngã ba, vẫn nắm tay khi qua đường. Tôi thì đi thẳng.

Khi ta nhìn ở khoảng cách đủ gần, một số thứ bỗng trở nên rõ ràng hơn.

***

Tôi lướt qua một cửa hàng bán đồ thú cưng ở bên kia đường, suýt nữa không để ý đến con một con mèo đang nằm ngoan ngoãn đằng sau cửa kính cửa hàng, bởi lẽ nhìn từ xa trông nó như một món đồ trang trí mà cửa hàng cố tình bày biện. Chỉ đến khi một người khách vừa gạt chân chống xe máy để bước vào cửa hàng và với tay ra chơi với nó, tôi mới biết là có con mèo thật ở đó. Đã khá lâu tôi không có lũ mèo bên cạnh. Kể từ khi có con, tôi cho đi gửi hết bọn mèo, và không lấy lại nữa. Trước đây chỉ có thời du học là tôi không có mèo thường xuyên bên cạnh (dẫu vậy, tôi vẫn nuôi một con mèo một thời gian ngắn trong quãng thời gian ở bên đó). Có những khoảng thời gian ta bơ vơ đến nỗi không có lấy một con mèo nào. Hiện tại thì tôi không như thế. Tuy thi thoảng thấy hơi thiếu thốn lũ mèo nhưng nhìn chung là tôi ổn, vì tôi có con bên cạnh. Vả lại, tôi biết chắc mình sẽ sớm nuôi lại mèo thôi, khi con của tôi muốn.

Murakami tuy yêu, nhưng lại không nuôi một con mèo nào. Điều đó không ngăn ông hiểu lũ mèo, cũng không ngăn lũ mèo giúp ông – bằng cách này hay cách khác – viết những tiểu thuyết thú vị.

***

Ở một góc phố đâu đó gần nhà, tôi nhìn thấy một ông bố đang dắt con mình đi chơi. Bỗng tôi thấy không hẳn là ghen tị nhưng làm tôi nhớ đến con trai mình. Tôi rất thích những lúc dắt tay nó đi chơi. Bàn tay nhỏ xíu của nó nằm gọn trong tay tôi. Cách mỗi ông bố đưa con mình vào thế giới đều giống như nhau. Ta nắm chặt bàn tay nhỏ xíu đó dìu dắt bước đi, từng bước từng bước, bàn tay trao cho ta tất cả sự dè dặt và tin cậy trên thế giới này, cho đến khi tự mình bước đi được.

Những giây phút đó, tôi chỉ cảm thấy không còn gì quan trọng với mình hơn nữa, bằng việc con trai tôi vui.

***

Một gia đình đang ăn tối muộn, tôi thoáng thấy khi đi qua căn nhà mặt đường không đóng cửa. Khu phố này vốn nhiều hàng quán, rất dễ để nhìn thấy những sự tụ họp thân mật của con người. Nếu ta để ý một chút, dù là lướt qua khi đi bộ mà hoàn toàn không phải ngoái lại nhìn, ta sẽ thấy cuộc sống thật sinh động mà không ồn ào. Ai cũng có việc của mình.

Đôi khi lững thững đi bộ, đóng vai một kẻ ngoài lề nhìn vào những thứ ngẫu nhiên xuất hiện trước mắt, trong một tâm trạng không hẳn là vui hay buồn, ta thấy điều mà ta muốn thấy. Và chúng sưởi ấm ta từ bên trong.

Murakami có một câu quote nổi tiếng: “Memories warm you up from the inside. But they also tear you apart”. Kỷ niệm sưởi ấm ta từ bên trong, nhưng cũng xé nát trái tim ta.

Nhưng dẫu sao, có kỷ niệm đã là tốt lắm rồi.

***

Một mình ở thành phố lạ.

Khi ta trẻ hơn, mỗi cơ hội một mình ở thành phố lạ là một lần ta tận hưởng sự cô đơn. Sự bơ vơ của tuổi trẻ đôi khi buồn đến rợn người. Tuổi trẻ lang thang, vô định, rất nhiều khi ta không định hướng được con đường trước mắt, và cả con đường tương lai. “Nghe buồn nhịp chân bơ vơ“, Trịnh từng viết như thế.

Lâu rồi tôi không còn thấy cô đơn. Kể cả khi một mình. Kể ra cũng hiếm khi một mình, nếu không đi công tác xa.

Khi có cơ hội một mình ở thành phố lạ như thế này, tôi chỉ làm mỗi một việc là lững thững đi bộ, và nhìn cuộc đời đầy ắp xung quanh.

Tôi không cảm thấy nỗi cô đơn là cần thiết như trước (hồi tôi trẻ hơn) khi ta có một chỗ để chờ ta, để đi về.

Nhân vật của Paul Auster cứ lang thang suốt ở New York. Patrick Modiano cũng để nhân vật của mình quanh quẩn khắp Paris. Cả hai đều là những kẻ lang thang vĩ đại, miêu tả gần như cặn kẽ từng góc phố, ngõ nhỏ, bờ kè, đại lộ ngoại vi, công viên, cảnh trí… như một bức tranh tả thực được tráng mờ đi bởi ký ức huyền hoặc.

Phải mất bao nhiêu ngày lang thang trong một thành phố để tất cả sự xa lạ này trở nên quá đỗi thân quen?

***

Hôm nay ta say ôm đời ngủ muộn

***

Mỗi phút giây, trên mỗi một dặm đường
Ta sẽ gửi một chút mình ở lại

June 1, 2022  Leave a comment

about happiness

Vì tình hình dịch nên tôi làm việc ở nhà hôm nay.

Trong lúc làm đồ ăn trưa, tôi nghe podcast Hieu.tv phần nói về hạnh phúc. Video này quả có khơi gợi một số suy nghĩ tích cực về cuộc sống. Tôi vừa ăn vừa nghe cho đến khi xong. Tôi hiếm khi chỉ ăn mà không làm gì khác; thường là xem Netflix, nghe nhạc, thậm chí đôi khi là làm việc. Cũng chỉ là một thói quen vô hại.

Ăn xong tôi dọn dẹp và pha cà phê. Vợ tôi tặng một chiếc máy pha espresso vào hôm sinh nhật năm nay, từ đó tôi luôn pha cà phê ở nhà. Tôi có hai công thức pha cà phê. Một kiểu giống Bà Nà của Reng Reng. Kiểu còn lại giống August của Drew Coffee. Thực ra thì chúng đều là cà phê kem béo vốn dựa nhiều vào whipping cream và sữa đặc, nhưng kiểu August có thêm sữa tươi và cà phê đổ vào hỗn hợp đánh bông bằng máy thay vì khuấy bằng tay như kiểu Bà Nà. Tuỳ vào hứng mà tôi sẽ pha kiểu này hoặc kiểu kia chứ không có kế hoạch cố định. Hôm nay thì tôi pha kiểu August, do tôi có nhiều thời gian hơn mọi ngày (vì làm việc ở nhà).

Tôi mang cà phê ra ghế papasan nằm đọc sách.

Hôm nay là ngày đầu tiên thành phố đón đợt lạnh mới tràn về trong đêm. Ngồi bên cửa sổ ở trên cao, nếu hé cửa sẽ thấy gió khô thổi vào khiến ta muốn mặc thêm áo ấm. Nhìn chung là một ngày chớm đông dễ chịu, rất hợp cho việc đọc. Lũ mèo hẳn sẽ uể oải chui vào một góc nằm ngủ cả ngày, nhưng xung quanh tôi không có con mèo nào.

Tôi đang đọc dở tiểu thuyết mới nhất của Murakami, Giết chỉ huy đội kỵ sĩ. Tôi chờ một thời gian sau khi cuốn sách này ra mắt mới tìm đọc, vì cũng chẳng vội. Đây vẫn là một tiểu thuyết “kiểu Murakami“. Một vấn đề với các nhà văn trở nên phổ biến và đại chúng hoá là người ta cứ thích đặt một kỳ vọng khó hiểu lên họ, rằng cuốn sau phải hay hơn cuốn trước, rằng họ phải đạt được các giải thưởng. Tôi cho rằng nhà văn kể những câu chuyện khác nhau và về cơ bản, mỗi câu chuyện có sức sống và ý nghĩa của nó. Trong trường hợp của Murakami, các tiểu thuyết sau này của ông không được đánh giá cao như các tiểu thuyết ở giai đoạn đầu sự nghiệp. Tức là nhiều người coi văn nghiệp là một quá trình và trong quá trình đó, người ta có xu hướng chọn một cột mốc gọi là đỉnh cao sự nghiệp của một nhà văn. Trước và sau cột mốc đó là giai đoạn đi lên và thoái trào. Với Murakami là đang ở giai đoạn sau. Đại khái là thế.

Tôi không nhìn văn nghiệp của một nhà văn theo lối như vậy. Đặt mình vào vai một người viết, điều tôi theo đuổi trong suốt cuộc đời mình đó là mình có nói ra được đầy đủ và trọn vẹn những tư tưởng của mình hay không. Tôi nghĩ suy nghĩ của nhà văn gần với vậy. Đối với họ, việc một tác phẩm này hay hơn tác phẩm khác không quá quan trọng. Điều quan trọng là trong toàn bộ văn nghiệp, họ đã nói được hết những thứ muốn nói, và nói được chúng theo cách tốt nhất đối với họ hay chưa. Tôi cho rằng động lực khiến cho một nhà văn tiếp tục viết, kể cả khi ở tuổi rất già và đã an nhàn từ lâu, hoặc khi danh tiếng đã lẫy lừng, ở việc họ còn muốn nói tiếp những điều phải nói.

Nếu tiếp cận trên quan điểm như vậy, ta sẽ tránh xu hướng so sánh các tác phẩm với nhau mà nhìn vào các thông điệp mà một nhà văn muốn truyền tải. Tôi không cho rằng sau 1Q84, Murakami viết kém hơn trên khía cạnh chất lượng tác phẩm. Ông đã nỗ lực kể những thứ tiếp theo. Tôi cho rằng Murakami trong văn nghiệp của mình đã tạo ra được một phong cách riêng, đó là “kiểu Murakami” siêu thực hậu hiện đại, từa tựa khái niệm Kafkaesque nổi tiếng. Trong văn nghiệp đó, mỗi tác phẩm có vai trò kể một thông điệp và hãy đánh giá năng lực kể thông điệp đó có đạt hay không.

Dông dài như vậy để nói rằng tôi thấy Giết kẻ chỉ huy (tôi thích gọi vậy cho gọn, và sẽ dùng tên này cho đến cuối bài) là một tiểu thuyết thú vị. Công bằng mà nói thì mạch truyện hấp dẫn một cách chậm rãi. Với ai đã quen với Murakami, tức là quen với motif nhân vật chính gặp biến cố lớn khiến cuộc sống trước đây của anh ta hoàn toàn đổ vỡ và bắt buộc dấn thân vào một hành trình đơn độc u tối để giải mã mình, sẽ thấy tiểu thuyết này không khó nắm bắt. Cách tốt nhất để đi vào thế giới của Murakami là hãy thả mình tự do cuốn trôi đi theo lời kể và tham gia vào hành trình của nhân vật. Từng chút một, những gì ta muốn biết sẽ được nói ra. Vậy thì việc gì phải vội?

Tiểu thuyết này là một ví dụ nhỏ cho lý do tôi thích đọc sách. Đôi khi ta chỉ muốn nghe một câu chuyện được kể thật cừ, trong một ngày gió lạnh giữa những trạm nghỉ của cuộc sống.

Và bất giác tôi suy nghĩ về hạnh phúc.

Anh Hieu.tv nói cuộc đời về cơ bản là hành trình tích luỹ thật nhiều ngày hạnh phúc. Tôi thấy suy nghĩ này rất hay, và đúng.

Tôi không hay nói về hạnh phúc của bản thân. Cuộc sống của tôi cũng không có gì quá đặc biệt hay nổi trội. Nhưng những năm gần đây, tôi thấy mình tích luỹ hạnh phúc thêm mỗi ngày.

Tôi thích viết và đọc, những thứ mà tôi chọn sẽ già đi cùng nhau, và qua đó tiêu tan đi các u buồn của tuổi trẻ. Nhưng càng ngày tôi càng có ít thời gian cho chúng. Giống như bất kỳ người trưởng thành nào, tôi dành hầu hết thời gian để làm việc và lo cho gia đình của mình. Nếu ở thời trẻ hơn, những thú vui cá nhân thật là quan trọng và giúp ta cân bằng; thì đến một lúc nào đó ta thấy vui khi san sẻ thời gian và sự chăm lo cho người khác ngoài bản thân ta. Điều quan trọng không phải tỷ trọng thời gian hay mức độ quan tâm giữa bản thân và cho người khác, mà những gì ta làm gột rửa đi bao nhiêu sự cô đơn trong cuộc đời này. Cô đơn là chất liệu của tuổi trẻ, tráng men cho sự vững chãi mà ta phải có để đứng được trong đời, và đôi khi đó là sự cô đơn cần thiết. Nhưng tôi nhận ra mình không còn là gã trai đơn độc hồi xưa nữa.

Kiểu nhân vật điển hình của Murakami là những gã đàn ông trung niên cô đơn, sắp xếp ngăn nắp cuộc sống của mình, không thực sự phụ thuộc vào các rào cản xã hội, gần như ngoài lề định kiến thông thường. Chính sự ngăn nắp và ngoài lề đó khiến trong nhiều trường hợp, khi hành trình mới ập đến cuốn đi, họ không mang theo gì cả. Trong hành trình đó, các nhân vật tích luỹ lại từng mảnh nhỏ của mình.

Quá trình của các nhân vật Murakami luôn là một quá trình hướng lên trên. Đó là điều tích cực trong văn chương của Murakami.

Tích luỹ hạnh phúc mỗi ngày là một hành trình cần thiết.

Tỷ như việc dành ít phút cho bản thân để pha cà phê hàng ngày.

Nằm đọc sách bên cửa sổ.

Hay dạo gần đây, tôi thích nhất khi ở cạnh con trai mình. Đi dạo với nó ở dưới sảnh toà nhà vào chiều tối, khi gió nổi lên, bóng của hai bố con một cao một thấp lẫn vào nhau. Tôi thấy mình của thơ bé và thấy mình của hiện tại, đồng thời.

Hoặc khi lùa được hết bọn nhỏ đi ngủ để tôi và vợ Netflix vội buổi tối, sau một ngày dài. Cùng nói với nhau về những cái hẹn Đà Lạt, Bangkok, Châu Âu – mục tiêu phấn đấu.

Và những điều nhỏ nhặt khác, bằng lòng hoặc không bằng lòng, trong cuộc sống đang diễn ra.

Một câu hát của Trịnh mà ta vẫn hay nghe. Cho đời chút ơn.

Có lẽ vậy.

221121

November 22, 2021  Leave a comment

lặng yên sau giông bão

Tôi 33 tuổi.

Mỗi năm muốn viết một chút khi tuổi mới đến. Tôi nghĩ tài sản lớn nhất của một người, không phải số tiền kiếm được hay các thành tựu, mà chính là các suy tưởng của họ. Suy tưởng là một thứ di sản.

Suy nghĩ, suy tưởng, ý tưởng, trí tuệ, đều chung một nghĩa, tựu chung lại là thứ tài sản thực sự cá nhân mà mỗi người có thể để lại trên đời. Người ta thích ý tưởng lên sao Hoả của Musk hơn là việc ông là cổ đông của tập đoàn ô tô giá trị nhất thế giới. Người ta thích Romain Gary, làm sao mà không thích được một tình yêu nồng nàn như Romain Gary?

Tự dưng tôi có một suy nghĩ, chỉ một hai năm nữa thôi là mình sẽ nằm trong tiêu chí loại trừ của rất nhiều công ty tuyển người trẻ (các loại công việc hay ghi ưu tiên người từ 27 đến 35 tuổi), nhưng ngược lại cũng nằm trong tiêu chí cộng của các công ty tuyển người dày dặn kinh nghiệm (các loại công việc cần tuyển người thâm niên lớn hơn 35 tuổi). Lý tưởng nhất của sự nghiệp là bạn bước ra khỏi một tiêu chí để đạt đến một tiêu chí khác. Nhưng sẽ thật tệ nếu bạn không còn nằm trong bất kỳ tiêu chí tuyển dụng nào. Tức là tôi còn từng ấy năm để quyết định sự nghiệp của mình có sang được một nấc mới hay rơi tõm vào đáy sâu của vùng ở giữa không thuộc về đâu cả. Mid-life crisis của rất nhiều người xảy ra khi bước vào transition time giữa hai giai đoạn đó và bị chối bỏ bởi tứ phía dập dồn.

Nhưng thật ra tôi không quá quan tâm.

Ở cái tuổi này, mà người ta hay nói “không quá trẻ để bla bla, không có già để bla bla”, tôi nhận ra; so với mấy năm trước khi mới ba mươi; các triết lý cuộc đời, mindset, lý tưởng sống, cái mình theo đuổi, đã dần dần xây dựng. Cũng có thể nhiều thứ sẽ thay đổi, thế giới quan và cách ta suy nghĩ cũng thay đổi theo, ai biết trước được, nhưng tôi không còn hỏi mình một loạt các câu hỏi cuộc đời “tôi là ai”, “tôi muốn trở thành gì”, “tại sao…” như hồi trước nữa. Có những câu hỏi đã tìm ra trả lời, có câu hỏi left unanswered, better be that way, có những câu hỏi trở nên không còn đúng nữa. Có những câu hỏi trước kia, vào một lúc nào đó quan sát ông con lớn lên dần và người vợ của mình sống bên cạnh hàng ngày, câu hỏi ấy tự biến mất, trở thành một khẳng định. Cuộc đời không phải là cứ đi tìm các câu trả lời khác nhau cho các câu hỏi. Cuộc đời là để đi tìm lời khẳng định.

Nghe như lời trong cuốn sách Đi tìm lẽ sống của Viktor Emil Frankl, một cuốn sách đầy cảm động từ một nạn nhân sống sót qua trại tị nạn và đợt diệt chủng của phát xít Đức. Người ta phải qua biến cố mới hiểu bản thân, tôi nghĩ là điều này đúng.

Những biến cố đẩy ta vào sâu hơn con người mình.

Có lẽ tôi là kiểu người chẳng bao giờ thoả mãn với tất cả các sự ghi nhận từ bên ngoài. Tôi chỉ thoả mãn khi bản thân mình ghi nhận mình từ bên trong. Cố nhiên, tôi không biết điều này quá sớm, thành ra bao nhiêu năm cố gắng chạy theo các thành tích phù du, theo các tiêu chuẩn xã hội và nhận ra mình không thực sự thấy tốt lắm kể cả khi đạt được cái này cái kia, tôi mới hiểu điều đó hoàn toàn không quá quan trọng với mình.

Mỗi khi lái xe và thấy trái tim mình vẫn xao xuyến với lời ca của Trịnh, hoặc một câu hát hoang đàng da diết của Lê Uyên Phương, tôi thấy mình mới là đang sống đến trọn cùng.

Xin cho yêu em nồng nàn
Xin cho yêu em nồng nàn
Dù tháng năm buồn vui bàng hoàng

Hay như khi lặng yên bên nhau sau giông bão, sau những niềm vui không nói nổi nên lời, nhìn con mình ngủ say sau một chập khóc hờn, mệt mỏi, chúng tôi thấy tình yêu vô thanh, vô ưu, tự bao giờ.

Những điều thực sự quan trọng với mình.

Những tiêu chuẩn của bản thân.

Tôi nghĩ cuộc đời là cuộc hành trình đi về với chính mình, tìm cho mình các cơ hội để thấu hiểu bản thân, và qua đó tìm được đến sự hài lòng.

Nên đừng quên chăm lo cho các thú vui tinh thần của mình, các thú vui sẽ cùng mình trưởng thành lên và già đi.

Cũng như những người đi cùng mình trên hành trình đó, may làm sao, hành trình đó không hề là một hành trình đơn độc.

Thêm một tuổi nữa cùng em.

Em
Kề vai tôi ngồi bên thềm
Bỏ lại đằng sau
Những khúc quanh co
Và cám dỗ để quay về
060720

July 6, 2020  Leave a comment

Cái hang

“Tôi viết để biết mình nghĩ gì” – Frédéric Beigbeder

Quán cà phê giống như một cái hang.

Hàng quán của Hà Nội dần trở nên giống nhau, không phân biệt đó là quán trà đá vỉa hè, trà chanh, cà phê hay nhà hàng, không gian kín hay mở; tất tần tật khách khứa đến rất đông và nói rất to, hét vào mặt nhau, phì phèo thuốc lá, mặc kệ cho bên cạnh là trẻ em hay phụ nữ mang bầu. Thêm một điểm chung của hàng quán Hà Nội đó là âm nhạc đã trở thành tiếng ồn, như Orhan Pamuk nói, khi âm nhạc trở thành những tiếng ồn, đó chính là sự bất hạnh. Rất khó tìm được một quán cà phê Hà Nội không bật nhạc ngớ ngẩn, không đông khách, và không thừa mứa tiếng ồn. Đôi khi tôi thấy tội nghiệp cho một chuỗi nhà hàng franchise của Tây, toạ lạc ngay trung tâm Hà Nội đắt đỏ, mọi thứ đều rất fancy cho đến khi âm nhạc thị trường thoả sức rắt réo, được thản nhiên bật lên bởi một tay nhân viên nào đó không đếm xỉa gì đến tính cách thương hiệu.

Nhưng bước vào quán cà phê này thì khác, giống như bước vào hang, con người cần phải cúi đầu. Tốt nhất là hạ mình xuống cho thật thấp. Thứ nhất, quán chỉ bán cà phê; tức là, không phải quán cà phê bán, giả dụ, trà sữa, hay những đồ uống rất khó gọi tên vì thành phần hỗn hợp của những chất hoá học trong nó; quán chỉ bán cà phê, cũng tức là, tự hạn chế được một thành phần khách đến quán cà phê chỉ để uống tất cả những gì không phải cà phê, và quán chỉ bán cà phê đúng là cà phê, coi như tiếp tục lọc đi những thành phần không chịu được vị đắng chát của cà phê mà chỉ ưa bột đậu rang hoặc thứ gì đó có màu nâu tương tự. Thứ hai, quán chỉ bật một gu nhạc duy nhất, không phải thị hiếu phổ thông. Và thứ ba, đến quán không được nói to và tụ tập đông người. Quán cà phê rất tối, không có wifi hay toilet, và rất chật chội, nếu hơi đông một chút là mỗi người sẽ nép sát vào nhau.

Tức là mọi thứ ở quán cà phê, hay cái hang, này là một nỗ lực kiệt cùng để chống lại chính mình đừng trở thành một quán cà phê đặc trưng Hà Nội – nơi người ta có thói quen đến đó để rủa xả những căm tức xã hội hay bộc lộ toàn bộ phần che dấu của con người mình. Không đâu người Hà Nội bộc lộ rõ bản chất hơn ở quán cà phê. Nhưng cái hang quy định rất rõ, nói hơi to một chút, âm lượng vượt qua thính giác của người bên cạnh đều là những sự suy đồi lớn, và bạn sẽ bị mời ra ngoài. Tôi từng chứng kiến sự hậm hực của hai người phụ nữ không xinh đẹp lắm nhưng luôn tỏ ra là mình xinh đẹp vốn quen với việc chia sẻ chuyện trong nhà của họ một cách thoải mái ở chỗ công cộng bị mời ra ngoài; trong khoảnh khắc đó cơn sốc của họ, sự tức tối của họ, cơn bùng nổ kinh khủng của họ vì không chấp nhận nổi sự hấp dẫn mà họ tưởng là họ có, sự hấp dẫn vốn đã quen được chiều chuộng và mang đến cho họ những đặc cách, trong trường hợp này hoàn toàn bị khước từ bởi sự thản nhiên của người nam phục vụ trong cái hang, chỉ vì họ nói hơi to. Cách tốt nhất để làm điêu đứng một phụ nữ ư? Cứ mặc kệ họ. Phụ nữ không chịu đựng nổi việc không được chú ý tới.

Phụ nữ hấp dẫn thì rất nguy hiểm. Nhưng phụ nữ tưởng là mình hấp dẫn thì thật thảm hại. Tôi từng ngồi ở một quán cà phê khác, trên vỉa hè Hà Nội sát rạt Hồ Gươm, cũng là một quán cà phê chật chội, vì khá chật chội nên tôi phải chọn một cái ghế mà sát bên cạnh đã có người ngồi; trước khi ngồi xuống, vì lịch sự tôi hỏi cô gái bên cạnh liệu tôi có thể ngồi đó được không, cô gái đó nhìn tôi, theo cách nhìn mà tôi hiểu là cô gái cho rằng câu hỏi đó chỉ là một cách để tôi bắt chuyện và làm quen (rất dễ nhận ra những cô gái đi đến quán cà phê để chờ đợi đàn ông làm quen), như đã quen với việc đàn ông đến làm quen với mình, gửi trả cho tôi một cử chỉ kiêu kỳ. Tôi nhún vai, ngồi xuống bên cạnh, cắm tai nghe vào nghe Bob Dylan và đọc sách. Đó là một cuốn sách rất cảm động của nhà văn người Hungary, viết về tình yêu trong chiến tranh, mà tôi nôn nóng muốn đọc cho xong. Đối với tôi, khi ngồi cà phê một mình và cắm tai nghe nhạc đọc sách là cách để hoàn toàn quên lãng xung quanh, tạo một màng lọc với thế giới bên ngoài, một khoảng cách để thế giới đừng động đến tôi nữa, một tuyên ngôn về lãnh thổ bất khả xâm phạm mà không ai được hoan nghênh vượt qua. Cô gái ấy có vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi ngồi xuống bên cạnh, cắm tai nghe đọc sách. Chừng một lúc, dường như không chịu đựng nổi việc tôi cứ ngồi đó đọc sách và không làm gì (làm quen chẳng hạn, như bất kỳ gã đàn ông nào khác), cô gái đó bắt đầu tìm đủ mọi cách vô tình nhất để gây chú ý của tôi. Một vài cái đụng chạm nhẹ giả vờ, thỉnh thoảng quay sang nhìn tôi đủ lâu để tôi biết, nhìn cuốn sách tôi đọc, lấy điện thoại ra selfie với cô bạn bên cạnh và tỏ ra đáng yêu. Tôi nhã nhặn dịch sang một chút dù gần như không còn khoảng cách bên phải nữa. Tiếp tục đọc sách, theo đuổi cuộc gặp gỡ của hai bệnh nhân người Hung nói tiếng Thuỵ Điển trong hai trại tị nạn làm quen và nâng đỡ nhau qua những lá thư. Đó là cuốn sách dạy cho ta về sự khờ dại của con người, nhưng cũng chính sự khờ dại với thực tế khốc liệt của bệnh tật và chiến tranh lại có thể cứu sống con người, chứ không phải sự tỉnh táo. Cô gái bên cạnh tiếp tục quay qua nhìn tôi, thường xuyên hơn lúc trước, sự sốt ruột của cô cũng cân bằng với sự nôn nóng đi đến cuối câu chuyện của tôi. Bob Dylan đang hát một bài hát về chủ nghĩa hiện sinh, nỗi buồn chán của thân phận con người, nhưng lại là bài hát tràn đầy hy vọng. Cô gái ấy thì thầm gì đó với cô bạn, quay sang nhìn tôi, rồi quay sang nhìn cô bạn, và cứ tiếp tục nhìn tôi mãi và chờ đợi. Cà phê ở quán có một mùi ấm áp và mạnh mẽ, mùa đông Hà Nội đang di chúc nốt những gì còn lại của nó trong những làn gió thoảng kiệt sức, heo may vật vờ không chống đỡ nổi cơn nóng đầu mùa khốc liệt; tôi ở đây nhưng cũng không thực sự ở đâu cả. Cô gái ấy đụng chạm một lần nữa, vờ như vô tình, tôi không phản ứng gì, nhưng cô ấy quay sang nhìn tôi chằm chằm, đủ lâu. Người khách bên cạnh đứng dậy đi về, tôi quyết định chuyển qua bên đó, tạo một khoảng cách, một thái độ, quá đủ cho mọi sự xâm phạm không gian riêng tư của việc đọc, tôi mang cốc cà phê của mình đi theo, cảm nhận sau lưng một sự tức tối lạnh lẽo. Nhưng cũng có sao đâu, tôi còn một phần ba cuốn sách đọc dở.

Tôi thích đến cái hang, chìm vào một góc trong đó, đọc sách và uống cà phê. Con người thì thầm xung quanh, thì thầm đúng nghĩa, nếu như họ không đến cái hang một mình. Cái hang có một không khí căng thẳng nhất định. Nhưng tôi thích cái tối tăm căng thẳng ở đó. Một quán cà phê áp đặt một chút căng thẳng lên khách hàng là một quán cà phê thành công, chứ không phải ngược lại, để mặc khách hàng huỷ hoại và biến nó thành một cái chợ vỡ hung hiểm.

Cái hang phục vụ thứ cà phê rang mộc, mà theo họ tự nhận một cách khiêm tốn, là trung bình yếu về mặt chất lượng, tuy vậy trong suốt các năm lê la cà phê Hà Nội, tôi chưa thấy ở đâu cà phê ngon như ở đây. Cà phê tôi thích uống nhất là ở Đà Lạt, thứ đồ uống được ướp thêm một chút sương mù vùng cao, thưởng thức trong cái nắng gió và không khí tan loãng của thành phố buồn dễ làm người ta xao nhãng và trở về đời sống hưởng thụ đúng nghĩa. Uống cà phê ở Đà Lạt là một sự thưởng thức cuộc đời buồn bã trôi đi. Cà phê của Cái hang cũng có xuất xứ Đà Lạt, đưa từ vùng núi cao về, thưởng thức trong một căn góc bị bỏ quên chật chội trong cái thành phố không còn mấy bản sắc từng có, dĩ nhiên mất đi sự bồng bềnh, nhưng phần nào dễ chịu hơn tất cả các quán cà phê dễ dãi khác. Cái hang không có wifi hay toilet, lại vô cùng tối và chật chội, tức là về mặt tiện nghi hoàn toàn không thiết kế cho việc ngồi lâu dài hay đi đám đông cùng bạn bè. Đối tượng đến với Cái hang phù hợp nhất là những người tìm đến một chút ẩn mình thoáng chốc, lặng lẽ bên một cốc cà phê được pha dày công, cẩn thận. Người pha cà phê vô cùng chậm rãi, nhẩn nha, tĩnh lặng tập trung vào việc của mình, như cách họ tự nhận có phần hơi trầm trọng, phần nào giống một tử tù lặng lẽ cải tà, còn với thiện cảm của tôi thì thấy giống các nghệ nhân khó tính với bản thân mình, kiên quyết không để sơ sảy trong việc rèn luyện kỹ nghệ hơn. Cốc cà phê nóng ấm, được pha điềm tĩnh, mỗi khi đặt xuống bàn của khách, chủ quán cẩn thận căn dặn cách uống sao cho thật vừa, như thể truyền cái nhiệt tình của mình cùng chút u uất lắng đọng trong hồn cốt của cốc cà phê đến người thưởng thức. Cái u uẩn nhẹ nhàng cùng mùi cà phê trong không gian tối tăm chật chội hoá ra lại phần nào dễ chịu.

Cái hang không khuyến khích chụp ảnh hoặc giới thiệu rộng rãi, vậy nên tôi không nêu tên ra làm gì. Phổ biến địa điểm này thực ra sẽ huỷ hoại họ. Những người thích uống cà phê ở Hà Nội có lẽ cũng sẽ tự tìm ra quán cà phê chất lượng này thôi.

March 16, 2020  Leave a comment

Trầm

Cậu bạn đồng nghiệp ở công ty tôi hôm trước dán miếng cao ở cổ, cùng vài vết giác hơi. Hỏi thì cậu ấy bảo bị đau đầu mấy ngày nay. Tôi bảo cậu ấy thực ra bị stress, cậu ấy bảo “vâng”. Cậu bạn này bề ngoài lúc nào cũng bình thản, thuộc style lỳ lợm ít biểu lộ sức ép, năng lực cao; nhưng nói chung vẫn không dấu nổi dấu hiệu của stress công việc.

Tôi nhìn quanh, xung quanh tôi không thiếu những người trẻ có tài thành công sớm, gánh trọng trách cao, và hầu hết đều ít nhiều trầm cảm nhẹ. Dù bạn có giỏi đến đâu thì trong guồng quay của business, bạn vẫn cứ phải rướn mình lên không ít thì nhiều. Nếu bạn không trầm cảm nhẹ, thảng hoặc đôi khi stress công việc, có lẽ bạn đang chơi cái games vẫn dưới sức của mình. Games lớn khiến mình chật vật mới mang lại cảm hứng cao, và games cứ khó dần lên không bao giờ kết thúc. Cho đến khi bạn muốn dừng lại.

Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy, chẳng chừa được mấy người.

Có những ngày ra khỏi văn phòng, ta đồng thời trải qua hai trạng thái; vừa thở phào nhẹ nhõm như trút bỏ được, vừa sợ hãi biết rằng guồng quay vẫn đang vận động về bất tận. Tâm lý nhị nguyên ấy của dân business văn phòng đến mức độ nào đó rất dễ trở thành một thứ bệnh stress trường kỳ. Người Việt trẻ ngày càng đau đầu nhiều hơn. Và work-life balance là một kỹ năng tồn tại trong thế giới vật chất.

Có bao nhiêu dân văn phòng trẻ nhốt mình trong office và deal với trầm cảm trong công việc hàng ngày nhỉ.

***

Ba mươi phút, đôi khi dài hơn, lái xe mỗi ngày; để thoát khỏi công việc tôi nghe nhạc. Mỗi khi lái xe một mình giờ tan tầm, tôi đều nhớ đến quãng đời ở Châu Âu di chuyển trên tàu từ chặng này sang chặng khác. Phương tiện tuy có khác nhưng hoàn cảnh tương đồng, đều là tôi tách mình ra khỏi đám đông bằng cách quăng mình vào âm nhạc. Một chút lánh đời nơi thường nhật. Hồi đó tôi lẻ loi hơn bây giờ, cũng vô lo hơn bây giờ nhiều. Nhưng những lo toan đầu đời hay ở thời hiện tại, trong nhiều trường hợp vẫn được xoa dịu thoáng chốc bởi các các cố nhân xưa, những niềm vui cũ.

Hôm qua nghe lại 70 năm tình ca trong Tân nhạc Việt Nam, phần nói về Phạm Duy, Lê Uyên Phương, Trịnh Công Sơn, Từ Công Phụng, Đoàn Chuẩn, Phạm Đình Chương, Trầm Tử Thiêng… và nghe câu “xin em hãy cho tôi tạ tình” Tuấn Ngọc hát, tôi vẫn thấy mình đủ rung động để yêu thương cuộc đời này, dù mỏi mệt đến đâu.

Mệt quá thân ta này, tìm đến chiếc ghế nghỉ ngơi

Tôi từng có nhiều thú vui hơn hiện tại, và dựa vào đó để tiêu tan đi những u buồn tuổi trẻ. Trưởng thành hơn, niềm vui gia đình, chơi với con, thảng hoặc hiếm khi có chút thời gian cho bản thân để tặng mình một bản nhạc cũ, tôi bỗng hiểu câu hát của Phạm Duy. Nghe xa vắng mà phảng phất đến bây giờ.

Dăm eo sèo nhân thế
Chưa phai lòng say mê

March 16, 2020  Leave a comment

Ký ức Châu Âu

Khoảnh khắc máy bay vọt lên không trung là một cơ hội lớn cho những đón lõng của ký ức bủa vây. Không có lúc nào hợp lý hơn để nghĩ về cuộc đời như khi ở trên trời. Toàn bộ quãng thời gian phi lý bất tận từ khi máy bay chầm chậm lăn bánh đến khi cất cánh chỉ làm con người bạc nhược dần đi, chờ đợi cũng như không chờ đợi, nới lỏng hết những đề phòng tự thân để mặc cho tiếng vọng từ quá khứ được dịp tràn về, lấp kín không gian xung quanh bằng kỷ niệm.

có những điều biết chỉ để mà quên
nhưng vẫn nhớ
vì quên là bất khả

Có một tiểu thuyết mở đầu bằng chính cái khoảnh khắc nới lỏng của ý chí con người khi vừa cất cánh hoặc hạ cánh ấy, đó là Rừng Nauy của Murakami. Tôi rất hiểu vì sao khi nghe bài hát của ban nhạc The Beatles và đương đầu với cơn tràn lên của ký ức, người đàn ông ba mươi bảy tuổi Toru bỗng vụt nhớ về thời hoa niên của mình, và tất nhiên, một mối tình cũ. Không có lúc nào hợp lý hơn để nhớ về bản thân mình (và những người tình cũ) như khi trôi dạt trên bầu trời.

Chiếc máy bay cứ bay lên mãi, đôi khi tôi ước gì nó cứ bay lên mãi như vậy, chẳng cần phải đặt chân xuống đất nữa, bỏ lại sau lưng những gánh nặng phố phường thì cuộc đời sẽ nhẹ nhàng đi biết bao. Ở trên không, con người tuyệt đối không làm gì, cũng chẳng thể làm được gì, trừ việc bạc nhược ngồi đó, mải miết suy nghĩ mà cũng không thực sự suy nghĩ về bản thân mình. Nhưng cũng có khi máy bay nghiêng cánh, cả một góc nghiêng mở ra chân trời rộng lớn đến phi lý, trải rộng về bất tận, khiến tôi thực sự có thể mơ hồ nhìn thấy phía bên kia bán cầu. Nhìn thấy Phương Tây. Tôi còn nghĩ nếu tôi cố gắng, tôi thậm chí còn có thể nhìn thấy chính mình; ở một lát cắt thời gian vô tình lọt qua khe hở mà thứ tự trước sau chỉ là một khái niệm tạm quy ước không thực sự có ý nghĩa; đang mệt nhọc bước đi trên những ngoại ô hoang vu của Châu Âu mùa lạnh.

đường thiên lý không em buồn hối hả
đã âm thầm
nhuộm biếc cả màu mây

Châu Âu đối với tôi là một thế giới khác, một vùng trời khác; nơi duy nhất chứa chấp nổi tôi, thay vì ném trả tôi về như những vùng đất khác – những vùng đất đối với tôi vô cùng quen thuộc; mỗi khi tôi rách rưới tan hoang nhất, trong tay hoàn toàn không có gì cả. Đó là những quãng tươi đẹp và buồn bã của tuổi trẻ, rất nhiều khi tôi không thực sự làm gì ngoài việc quăng quật, lang thang trên những ngoại ô vào buổi chiều tàn; những ngoại ô hoang vu và ảm đạm, rẽ hướng nào cũng thấy xa lạ như nhau. Tuổi trẻ hình như cứ phải sôi nổi như thế, hoang vu như thế. Đến mãi sau này, tôi vẫn khôn nguôi nhớ tiếc quãng thời gian hoang vụ ảm đạm đó.

Ký ức Châu Âu của tôi gắn liền với các mối tình. Mỗi bận đi về, tôi lại kịp có cho mình một mối tình, ngạc nhiên chứng kiến mỗi cuộc tiễn đưa ở sân bay là đều đặn những lần biến mất của một cô gái và xuất hiện của một cô gái mới. Các cô gái cứ thay nhau biến mất và xuất hiện trong cuộc đời của tôi, kéo dài bất tận cảm giác nuối tiếc dày vò của việc không thực sự giữ được ai cả, đôi khi là cả bản thân mình. Châu Âu nằm giữa ở những đổi thay, mà kết thúc của thứ này chỉ là để liên tục mở ra những thứ khác, kéo cuộc đời trôi dạt về những ngã rẽ không thực sự rõ đường. Lần trở lại Châu Âu sắp tới liệu có chứng kiến sự xuất hiện của một cô gái khác? Tôi cũng không chắc lắm.

Nhưng dẫu có hoang vu ảm đạm đến đâu, tôi vẫn không ngừng biết ơn Châu Âu đã ở cạnh tôi, chứa chấp tôi ở quãng thời gian trai trẻ non nớt của mình. Châu Âu dạy tôi rất nhiều thứ, chủ yếu là những ý niệm về khoảng cách. Mãi sau này khi trở về các vùng đất vốn thân quen với mình, nhưng không sao chịu đựng nổi sự gần gũi quá mức của con người với nhau mà chỉ khiến tôi thấy ngột ngạt khủng khiếp; rồi tôi nhanh chóng chuyển sang một vùng đất khác, Bangkok – nơi khoảng cách con người được tôn trọng hơn chút ít và cũng thấy dễ thở hơn chút ít; tôi mới hiểu rằng mình nhớ cuộc sống tuyệt đối tự do và cách biệt ở Châu Âu biết bao. Sự cách biệt của cuộc sống Châu Âu vừa thể hiện ở mặt vật lý – những thành phố của Châu Âu, nhất là vùng nông thôn không cách quá xa đô thị, những căn nhà thực sự rất xa nhau, nhỏ xinh và lặng lẽ ngủ yên trong những khu vườn và mảnh đất ngập tràn hoa và nắng của mình; đi mệt mỏi mới đến nhà bên cạnh, vốn là rào chắn lý tưởng cho những sự nhìn ngó ác ý – vừa thể hiện ở mặt văn hoá, tinh thần – người Châu Âu không có thói quen để tâm quá mức đến đời sống cá nhân của người khác. Đồng nghiệp lâu năm với nhau có khi không biết người kia lập gia đình hay chưa. Châu Âu dạy tôi về sự một mình, về những trải nghiệm tự thân. Hình như cả cuộc đời mình, cuộc chiến của tôi chỉ là cuộc chiến để có thể cách biệt càng nhiều càng tốt, tránh đám đông càng xa càng tốt, nhất là những đám đông như vậy.

Ký ức lang thang Châu Âu của tôi gắn liền với những toa tàu. Không phải những toa tàu chật ứ xác người mệt mỏi ngủ gật như ở Tokyo, mà chen chúc trên đó vốn dĩ là một nơi có phép tắc cư xử riêng rất khó nắm bắt, tôi nghĩ tốt nhất là mình cứ thu nhỏ lại thì tốt hơn, hoặc thậm chí biến mất. Những toa tàu Việt Nam, không biết gọi là tàu chở người hay hàng, hay là cả hai, trộn lẫn những mùi, những người, và không khí đề phòng thường trực làm người ta rất khó ngủ. Hay những toa tàu Bangkok, không quá đông cũng không quá vắng, nhưng vẫn rất ít khi có ghế trống, và không khí nóng bỏng thường trực. Đôi khi mải cắm mặt vào điện thoại mà quên lãng xung quanh, bất chợt ngẩng lên thấy phía trước mặt mình là một cô gái Thái xinh đến điêu đứng. Những cô gái Thái thực sự là Thái có một vẻ đẹp rất riêng, môi đầy đặn, mặt sắc nét và đằm thắm, nhất là đôi mắt, cùng sự tròn trịa lúc nào cũng chỉ trực quyến dụ người ta, mà tôi biết sự ngoan ngoãn lễ độ của họ cũng đối nghịch khủng khiếp với sự hoang dại từng trải đầy hứa hẹn cũng của chính họ. Trong khoảnh khắc ấy tôi gần như không biết phải làm gì với cô gái trước mặt; đội mũ lưỡi chai và áo phông bó sát, tôi vốn thích các cô gái đội mũ lưỡi trai, ở họ lúc nào cũng tỏ ra một sự bướng bỉnh rất đáng yêu; cũng đang cắm cúi vào điện thoại như mình. Cho đến khi tôi nghĩ ra sẽ phải bắt chuyện với nàng như thế nào (các cô gái Thái thật ra không khó bắt chuyện lắm) thì tàu bỗng dừng lại vì đến bến – cũng là bến của tôi. Tôi ngần ngừ mất một lúc nghĩ xem có nên bỏ qua bến này để ở lại bắt chuyện với nàng không, vì nàng cũng vừa kịp nhìn tôi và chắc ngạc nhiên chứng kiến sự bối rối của tôi. Nàng xinh quá đỗi, nhưng cuối cùng, tôi quyết định xuống tàu. Những chuyến tàu của Bangkok là những quãng di chuyển ngắn không thực sự đủ thời gian cho sự bùng nổ của các mối tình, nếu là tàu đường dài Shinkansen như ở Nhật Bản thì may ra, đấy là tôi cứ tự bảo mình như thế. Vả lại tôi đang cần ăn trưa hơn.

Những đoàn tàu ở Châu Âu quy củ và sạch sẽ, đặc biệt im ắng như một quy ước bất thành văn về giọng nói tránh vượt qua phạm vi thính giác của người đối diện. Sự cách biệt từ bản chất của người Châu Âu cũng không ngừng thể hiện trên các toa tàu. Cứ lên tàu là mỗi người chìm vào thế giới của riêng mình, hiếm ai nói chuyện, nhưng điện thoại thì vô tư, người ta vẫn thoải mái nói chuyện điện thoại chứ không như người Nhật kể cả bất đắc dĩ phải nói điện thoại thì cũng im lìm như xác ướp.

Còn tôi, cứ lên tàu là đương đầu với những khoảng thời gian đằng đẵng. Có rất ít thứ để nhìn ngắm ở bên ngoài cửa sổ khi bốn bề là tuyết, những sa mạc mà trước đây là vườn hoa và cảnh trí các thứ bây giờ hoàn toàn chìm trong sự dày đặc của tuyết phủ. Thảng hoặc đôi khi đoàn tàu lướt qua những khu đô thị hoặc núi non đồng bằng vui mắt một tí chỉ là các quãng nghỉ giữa những sự chuyển tiếp của vùng sa mạc trắng xoá này với vùng sa mạc trắng xoá khác. Tôi buồn chán nghe nhạc hoặc làm gì đó, chủ yếu gà gật nhưng toàn bộ thời gian hầu hết tôi không thể ngủ. Ấy thế mà có lần, không chỉ là một, tôi rơi tõm vào các giấc mộng mị ngắn ngủi mệt mỏi chỉ để sau đó phát hiện ra mình đã lỡ bến tàu.

Lỡ bến tàu vào mùa đông Châu Âu ở những thành phố không lớn lắm thực sự là một thảm hoạ. Hoặc bạn đi tiếp đến bến cuối rồi quay ngược lại, tốn rất nhiều thời gian, hoặc bạn đến bến này và chờ tàu ngược, vốn dĩ cũng tốn nhiều thời gian như thế. Các chuyến tàu ngược của những thành phố hoang vu không nhộn nhịp lắm, đôi ba tiếng, đôi khi lên đến sáu bảy tiếng, thậm chí nếu bất hạnh rơi vào lỡ chuyến cuối thì đương nhiên ta phải ngủ lại cả đêm ở bến tàu để chờ chuyến sớm hôm sau. Nhà ga Châu Âu không phải cái nào cũng mở qua đêm, chủ yếu thì con người sẽ phải ngủ ở ngoài đường, dưới cái lạnh âm độ.

Tôi không bất hạnh lắm vì không phải lỡ chuyến cuối, nhưng chuyến tàu ngược sẽ chỉ đến đây sau dăm ba tiếng nữa gì đó, đấy là tôi đoán thế chứ không thực sự biết được vì hôm đó chẳng hiểu thế nào mà nhà ga đóng cửa hết cả. Không có ai nói cho tôi biết điều gì. Bến tàu hoang vắng như sa mạc, tuyết phủ trắng xoá, trời lạnh căm căm. Hồi đó tôi cũng không đủ dạn dĩ để đi tìm một nơi trú thân, nhà nghỉ hoặc khách sạn gì đó nếu có , vả lại tôi cũng có nhiều tiền đâu, nên cứ cắn răng đương đầu với sự chờ đợi vô tận như thế, trong lòng tràn đầy tuyệt vọng. Sốt ruột chờ tàu, không thực sự rõ là đến bao giờ, ở những thành phố xa lạ chưa từng đặt chân tới, xung quanh không một bóng người, hoặc giả trong sự tuyệt vọng của tôi con người bỗng biến đâu mất cả. Tuyết rơi mỗi lúc một dày hơn, tôi bắt đầu thấm lạnh, cái lạnh của tuyết đóng băng dần con người ta; đôi khi tôi không thực sự cảm nhận rõ cơ thể mình. Mỗi tiếng trôi qua tăng dần niềm tin trong tôi rằng tàu thực sự sẽ không bao giờ đến nữa. Rằng tôi thực ra đã bị bỏ lại ở cái chốn này. Hồi đó tôi còn quá non nớt để hiểu được các dấu hiệu mà cuộc đời mang lại, nhưng có một điều tôi hiểu rất rõ đó là con người có thể lẻ loi đến thế nào. Những trải nghiệm về sự đơn độc sâu sắc nhất với tôi đều đến từ Châu Âu già cỗi.

Rồi thì tàu cũng đến; nó lầm lũi từ xa chạy lại mờ mịt trong sương mù làm tôi không thực sự chắc chắn là thật hay không, hay chỉ là những hình ảnh biến thể của ước vọng xa xôi nào đó rọi lại. Nhưng dù sao thì tôi cũng lên tàu, và không lần nào có thể ngủ được nữa.

(tuy vậy, tôi vẫn tiếp tục ngủ quên để rồi lỡ bến; nếm trải thêm các trải nghiệm tuyệt vọng tương tự khi một mình đối phó tại bến tàu; tôi đồ rằng về sau này một phần nào đó sâu thẳm trong tôi không mấy kỳ vọng vào con người hẳn đến từ nguyên nhân sâu xa của những lần bị “bỏ rơi” tại các bến tàu lạnh lẽo, nhưng về cơ bản, những trải nghiệm đơn độc kiểu ấy không hoàn toàn làm thui chột con người ta đi mà trái lại, góp phần rất nhiều vào việc rèn giũa nên sự cứng cáp)

Cuộc sống Châu Âu, có thể do sự cách biệt của nó, đánh dấu một chuyển biến quan trọng trong việc định hình con người tôi sau này. Những năm sống ở Châu Âu, do không mấy khi phải tiếp xúc với quá nhiều con người xung quanh (cuộc sống xã hội ở Việt Nam là một môi trường bủa vây dày đặc của các mối quan hệ), và do sống xa nhà, theo thiên hướng tự nhiên thôi thúc tôi trở về cội nguồn, tôi bắt đầu tìm hiểu về văn chương và tân nhạc Việt; tất nhiên không chỉ gói gọn trong sự duy mỹ của Việt Nam, về cơ bản thì tôi thích tất cả những sự duy mỹ thể hiện bằng ngôn từ và nhịp điệu; để rồi phát hiện ra một đam mê lớn của mình. Ở tuổi mười chín đôi mươi, tôi tự thấy tôi có may mắn hơn nhiều người ở chỗ sớm phát hiện ra mình yêu thích cái gì và có niềm vui theo đuổi nó. Những va chạm với văn chương và âm nhạc thời đó kích hoạt một thứ nhiệt huyết tuổi trẻ đầu đời không dễ lặp lại. Đó là một thứ hạnh ngộ mà cuộc đời đã hết sức hậu đãi tôi.

Để rồi ở tuổi hai mươi, khi hầu hết chúng bạn vẫn còn đang say mê với các cái của khỉ gì không biết, tôi thậm thụt nghiên cứu văn chương và túc tắc viết những bài thơ đầu đời. Thậm chí tôi còn tập toẹ dịch cả Đường Thi, nhưng nhanh chóng nhận ra mình thích thơ mới Việt Nam hơn nên từ bỏ.

Cả một mùa thu đã quá giang…

Xâm nhập sâu hơn vào thế giới của văn chương, thi ca dẫn lối tôi vào một thế giới rộng lớn của nội tâm mình. Tôi kinh ngạc nhận ra viết chỉ là một trạng thái khác, một biểu hiện khác, của ý thức. Khả năng viết được ra chính xác những suy nghĩ trong đầu trong biểu hiện và quy tắc của ngôn ngữ, đừng nghĩ là dễ, và quả thực phải tập luyện rất lâu. Đó là chưa kể đến viết thơ, về cơ bản là sự bay vụt lên của ý thức (quan điểm này của Nhị Linh rất chính xác); bay vụt lên tức là chọn một biểu hiện khác, biểu hiện duy mỹ và xuất thần của ý thức dưới dạng ngôn từ. Chính vì thế mà nỗi sung sướng khi viết được ra những câu mà biểu đạt trung thành với suy nghĩ nhưng bay vọt lên về mặt duy mỹ luôn làm tôi mất ngủ. Viết chính là một biểu hiện đẹp hơn của nghĩ.

Đôi khi tôi choáng váng vì vẻ đẹp của ngôn ngữ khi đọc được những văn chương mê hồn. Có rất nhiều người yêu Tiếng Việt, yêu một cách trong sáng. Tôi thuộc vào những người thực sự hiểu được Tiếng Việt có thể đẹp đến mức nào. Tôi cũng hay mỉm cười khi có ai đó phê phán về việc phải sử dụng Tiếng Việt cho “thuần Việt”, vì chưa chắc họ đã đọc nổi một bài thơ nào. Ngôn ngữ thì có quy tắc, nhưng những gì xuất sắc nhất lại đến từ sự bất quy tắc, Nhị Linh lại một lần nữa đúng.

Tôi vẫn giữ những đam mê đấy cho riêng mình, thích thú với sự theo đuổi những lĩnh vực riêng tư không mấy ai hiểu được, ít nhất là so với chúng bạn, và hoàn toàn thoả mãn với cõi riêng, với sự cách biệt của mình. Một lần nữa phải nhắc lại, cuộc chiến cơ bản nhất với tôi là cuộc chiến để trở nên cách biệt hoàn toàn so với đám đông. Thế giới ở ngoài kia dẫu có màu mè thế nào đi nữa thì tôi vẫn chỉ âm thầm hân thưởng thế giới của mình.

Có khi do sống ở Châu Âu quãng thời gian đó, vốn dĩ làm gì đó khác người hay không theo đám đông là điều hết sức tự nhiên, con người không phải lo để ý đến người khác nghĩ gì về mình, mà tôi có khoảng không để phát hiện ra thiên hướng của mình chăng.

March 16, 2020  Leave a comment

Căn cước

Tôi là một người từ quá khứ…” – Frédéric Beigbede trả lời như vậy trong một cuộc phỏng vấn. Tôi nghĩ đến gã nhà văn trầm cảm và rất nhộn người Pháp này mãi và tôi thấy là mình thật là giống gã (hơi hơi). Frédéric Beigbede vẫn là một trong những nhà văn dạy cho tôi nhiều điều nhất, về sự phù phiếm, về ý nghĩa của việc viết. Không cần đọc quá nhiều, nhất quyết không cần quá nhiều, chỉ cần đọc đủ. Đọc để thấy thứ mình cần, tìm những mảnh nhỏ rời rạc của mình. Và nhất thiết nên rút ra một điều giá trị mà mỗi nhà văn muốn dạy cho ta.

“Murakami dạy cho tôi về tính kỷ luật, thứ quyết định đến toàn bộ tập tính của tôi trong cuộc sống. Cuộc đời tức là một cuộc rèn luyện lớn để đạt được tới tiêu chuẩn của bản thân, và chỉ có tiêu chuẩn của bản thân là quan trọng. Không thể chịu nổi những kẻ hay tự hào với những thành công nhỏ (như xưa đã nói). Con người tha hoá đi vì thấy giấc mơ của mình được thực hiện dễ quá, những thành công nhỏ vì chúng đến sớm, khi người ta chưa đủ lớn để nhận nó đồng thời tiêu chuẩn của họ đơn giản quá. Làm gì có thành công, mà nếu có, thành công, đúng nghĩa phải là, làm sao nâng được tiêu chuẩn của bản thân lên và nâng lên mãi. Con người có thể mưu cầu thành công, tất nhiên, cùng toàn bộ tính chất phù phiếm của nó; nhưng ngược lại, quan trọng hơn, con người phải chạy trốn thành công mới đúng. Tức là kháng cự lại chính mình đừng để bị cám dỗ bởi những thứ nhỏ, ít nhất, nhỏ hơn chính mình. Như thế thì rẻ rúng lắm. Tôi nghĩ giải thưởng đối với Murakami trong tư cách một nhà văn đều là thành công nhỏ, một sự công nhận cho những gì bé hơn bản thân nhà văn ấy. Thành công đối với Murakami là viết văn thật cừ, và làm sao để cừ hơn nữa, giống như việc không ngừng chạy tốt hơn trong bộ môn marathon. Mọi người hầu hết nhầm lẫn về tôi hết, họ cứ tưởng là đối với tôi những gì tôi đạt được ở đâu đó là to tát lắm, kỳ thực, đối với tôi chẳng quan trọng. Tôi còn chẳng thực sự nỗ lực lắm để có một vài thứ. Tiêu chuẩn bản thân ở chỗ khác, là những thứ đáng viễn vọng và tận hưởng hơn nhiều, có một niềm vui riêng tư được tận hưởng những thành quả hết sức cá nhân mà không phải ai cũng hiểu được. Tôi nghĩ Murakami dầu sao vẫn là một người hạnh phúc vì ông hoàn toàn bỏ được những gánh nặng của các lao xao bên ngoài và áp đặt của người khác qua vai.

Frédéric Beigbede nói cho tôi về việc viết. Viết tức là giọng nói ở bên trong mình, là để biết mình nghĩ gì, đôi khi thật đáng ngạc nhiên, con người vẫn hay ngạc nhiên về bản thân mình, thường xuyên đến nỗi việc này không còn gây ngạc nhiên nữa. Ngạc nhiên cả về những điều đã biết và chưa biết. Đừng ngạc nhiên khi ta thấy ngạc nhiên về bản thân mình. Hoá ra ta là như vậy? Đúng, ta chính xác là như vậy. Frédéric Beigbede không ngừng ngạc nhiên về bản thân và viết những cuốn sách kể về việc ngạc nhiên ấy. Và tôi thấy như vậy rất khoái khẩu.

Guy de Maupassant, một nhà văn Pháp duyên dáng, người hiểu sâu sắc về uy lực của một từ đặt đúng chỗ. Chữ duyên dáng này tôi dành cho rất ít người, ví dụ như Romain Gary. Văn chương khó thấy điều này hơn thơ vì thơ có tính cô đặc; người có chút kinh nghiệm về thơ, đặc biệt là Thơ Đường, sẽ hiểu điều này, việc chọn một từ sao cho thật gọn, thật vừa vặn không phải là điều thông thường mà nhất thiết phải là một khoảnh khắc xuất thần cao vút, là ánh sáng chói lọi. Làm sao miêu tả nổi tính chất huyền ảo của ngôn từ khi dùng từ đúng chỗ? Thật là vô phương, bất khả.

Và Milan Kundera, con người uyên bác chỉ ra (một cách hết sức đơn giản về) sức nặng của sự nhẹ. Việc sống vốn hết sức đáng cười.

Những ông hoàng văn chương ấy cứ lần lượt thì thầm với tôi đến là nhiều điều. Nhưng biết làm sao được.

Tôi cũng là một người từ quá khứ; khi đọc Istanbul, tôi thấy thật gần gũi vì đó chính xác là cách tôi nghĩ về một thành phố nên được miêu tả, được hiện ra như thế nào, vô cùng sương khói mờ ảo nhưng sự mờ ảo sương khói đó là do ký ức vương vấn tạo ra chứ không phải lớp sương mù của khói tàu bên bờ vịnh Bosphorus, nơi phân chia ranh giới Đông và Tây. Một thành phố ở trong ta tức là những gì đã mất đi nhưng dường như vẫn ở lại đây mãi. Văn chương cũ, âm nhạc xưa, thơ cổ gây cho tôi hứng thú lớn. Du Tử Lê và Đinh Hùng đã từng rất máu thịt đối với tôi (bây giờ vẫn máu thịt) và có những câu thơ đối với tôi hết sức tuyệt đối (*) (Chỉ nhớ người thôi đủ hết đời; Cả một mùa thu đã quá giang; Thấy cả bóng một vầng đông thuở trước). Âm nhạc của Trịnh Công Sơn và Lê Uyên Phương cũng là đỉnh cao của cái đẹp cũ. Ở đầu hai mươi tuổi tôi đã sớm biết đến những gì đẹp nhất trong Tiếng Việt, một ấn tượng mạnh mẽ khiến về sau này dẫu thế nào tôi vẫn giữ lại cho mảnh đất có thứ ngôn ngữ tuyệt này một tình cảm âm thầm, tôi không ghét nó nổi. Thế giới ước lệ trong quá khứ gọi mời người trẻ là tôi, khi ấy đang lang thang ở Châu Âu và thường xuyên nhớ nhà. Tôi là người truy ức đến cực cùng, lạc lõng đến cực cùng trước thế giới này nhưng đồng thời cũng thả trôi theo nó. Khi đọc Núi thần của Thoman Mann, ngap lập tức tôi hiểu điều mà ông muốn nói, cuộc đời tức là trở nên thích nghi với những sự không thể thích nghi được, và như những gã ở trên, đây là điều quan trọng nhất mà ông nhà văn già hiền hậu người Đức thì thầm vào tai tôi như một niềm an ủi. Tôi thấy dễ dàng hơn khi bớt bắt mình thích nghi với con người và sự vớ vẩn xung quanh đi, thay vào đó, cho phép mình hiểu rằng, tốt nhất là không nghĩ đến con người nữa. Thế giới thật ra chỉ nên thật hẹp.

Nếu sống là để thích nghi với việc không thể thích nghi nổi thì rốt cuộc, sống để làm gì? Sau khi lặng lẽ bước qua ngưỡng ba mươi tuổi, tức là bước qua ngưỡng quan trọng vô biên, tôi nghĩ là mình cần trả lời cho bản thân câu hỏi này.

Ba mươi tôi, câu hỏi lớn nhất đối với tôi đó là tôi là ai. Ba mươi mốt tuổi, tôi nghĩ câu hỏi lớn thứ hai mình cần trả lời, đó là mình muốn gì trong cuộc đời này?

Muốn gì trong cuộc đời này?

***

Khi những con thuyền chở mộng ra đi
Giấc mộng phiêu lưu như bầy hải điểu

(còn tiếp)

(*): Mượn ý của Nhị Linh (“máu thịt” và “tuyệt đối” khi viết về nhạc Trịnh Công Sơn)

July 6, 2018  Leave a comment

« older posts newer posts »