Kết thúc để bắt đầu
Nào, chúng ta hãy cùng đến với những gì hấp dẫn nhất của văn chương.
Điều gì làm cho văn chương thú vị? Chính là vì nó luôn luôn từ chối.
Văn chương hay ở chỗ chúng ta không cách gì hiểu cho trọn vẹn. Một tiểu thuyết thực sự lớn sẽ khước từ bất cứ cơ hội nào để được nhìn nhận đến tận cùng; các nhân vật được tạo ra, các tình tiết được mang đến, các nút thắt, các đoạn mở… tự bản thận chúng đòi hỏi một sự đánh giá đi đánh giá lại; mỗi câu chuyện đều sẵn sàng mang đến cho mỗi người đọc một cửa vào, đôi khi giống nhau hoặc khác nhau, và đưa họ đến một cửa ra, đôi khi cũng giống hoặc khác nhau, nhìn chung là tuỳ vào độc giả, có thể có cả nghìn cánh cửa như vậy, những giao cắt vô tình hữu ý trên những cánh cửa mở ra và đóng lại đó mang độc giả lại gần nhau hơn (trên khía cạnh cảm xúc, cảm nhận), những cũng đồng thời đưa chúng ta ra rất xa nhau. Đọc là việc hết sức cá nhân, mỗi chúng ta đều có một cửa vào và một cửa ra của riêng mình. Còn hơn cả thế, mỗi một lần đọc lại quyển sách nào đó, rất nhiều khi chúng ta sẽ tìm ra một đường vào khác, và đi ra ở một cánh cổng khác, có hoặc không các giao cắt với lần đọc cũ, mở ra cho chúng ta rất nhiều cảm nhận mới mẻ. Đừng ngạc nhiên khi thấy chúng ta nhìn một nhân vật ở lần này khác hẳn so với lần trước.
Đi vào một quyển sách, cũng như đi vào bản thân, là việc phải từng chút từng chút một, đi qua rất nhiều ngã rẽ, đôi khi sai đường, mà nói chung làm gì có đường nào gọi là đúng, con người vốn dĩ tràn ngập mâu thuẫn. Nhưng đồng thời con người cũng vô cùng nhất quán, bởi lẽ chúng ta chỉ đi loanh quanh trong cái bản thể của mình, trong cái vòng tròn số phận của mình. Bản chất con người nhất quán trong một sự mâu thuẫn tuyệt đối.
Cùng với văn chương, thi ca cũng nuôi dưỡng cho nó sự từ chối thấu hiểu đến tận cùng tương tự, và cả âm nhạc cũng vậy. Tất tần tật đều giống như nhau hết. Cả ba thứ này (có lẽ còn có những thứ khác) đều đến từ những tầng sâu của con người. Có trải nghiệm viết một chút, tôi biết rằng một nhà văn cũng có thể hoàn toàn không, và cũng không cần thiết, thực sự thấu hiểu tuyệt đối tác phẩm của mình. Đôi khi giọng nói ở bên trong nói rằng phải viết “điều ấy”, phải kể câu chuyện đấy, một cách phi lý trí nhất có thể, và mọi thứ cứ tự diễn ra thế thôi. Văn chương từ chối sự hiểu từ bất kỳ ai, ngay cả từ chính người viết ra chúng.
Con người với nhau cũng vậy, chúng ta cũng duy trì một sự từ chối thấu hiểu một cách tự nhiên, một cách bản năng. Con người không phải để hiểu. Chúng ta chỉ có thể nhận thức được các hiện tượng (người này thích điều này, thích điều kia, anh này thích đọc văn, thích đá bóng vv) và từ đó phỏng đoán ý nghĩa của các hiện tượng đó (thích đọc sách tức là kiểu người này, thích đá bóng tức là kiểu người kia). Chúng ta nhìn nhau qua các phỏng đoán. Bản thân các phỏng đoán cũng đầy rẫy những sự vô căn cứ, những sự mơ hồ. Cũng đừng ngạc nhiên khi phần lớn thời gian con người nhầm lẫn về nhau hết. Mọi thứ chỉ là phỏng đoán, chỉ là hiểu lầm. Con người không phải để hiểu, chúng ta chỉ có thể “cảm nhận”. Khái niệm tương đối gần điều này nhất có lẽ là thấu thị. Để hiểu một con người, thực ra đúng hơn là để “lại gần”, hãy nhìn họ. Nhưng nhìn không phải là “nhìn”. Chúng ta hiểu lầm một con người chủ yếu do chúng ta nhìn vẫn chỉ là nhìn, chứ không phải là nhìn.
Cứ bình tĩnh, mọi chuyện không phức tạp đến thế.
Khi chúng ta bỏ đi ham muốn chân chính thấu hiểu một con người, thì mọi sự trở nên tột cùng đơn giản.
Đối với Đinh Hùng, mỗi con người là một hành tinh (Anh sẽ tìm em như tìm một hành tinh/Mặc trái đất sắp tan vào mộng ảo). Tôi cũng cho rằng như vậy. Con người, cũng có thể là một vũ trụ nữa, với đầy rầy những sự mâu thuẫn, bí ẩn, không lời đáp của nó. Con người cũng có thể chẳng là cái gì.
Hình như từ đầu tôi định nói đến một việc khác, nhưng lại lan man đến chuyện con người. Tôi sẽ trở lại với nó ngay sau đây.
Quyển sách của năm của tôi trong năm 2016 chắc chắn phải là Tôi nói gì khi tôi nói về chạy bộ của Murakami. Một phần lớn ý thức hệ của tôi đã được củng cố từ tinh thần của quyển sách này. Những người follow tôi sẽ còn nhớ những gì tôi nói về nó, có lẽ là những thứ khả dĩ đáng kể nhất mà tôi từng huyên thuyên trong cả năm nay.
Còn quyển sách của năm 2017, dù mới bắt đầu năm thôi, tính tới hiện tại phải là Xứ sở kỳ diệu vô tình và nơi tận cùng thế giới. Đây cũng là quyển sách từ chối sự thấu hiểu đến tận cùng.
Tôi đọc quyển sách này vì một lý do rất riêng tư, và cũng rất tình cờ. Tôi đã có ý tưởng viết Bóng từ trước đây, cho đến khi tôi biết được rằng Xứ sở kỳ diệu vô tình là một tiểu thuyết mang nhiều khái niệm và ẩn dụ thực sự hay về chiếc bóng (the shadow). Tôi quyết định sẽ đọc nó để tìm cảm hứng, và khác với các tiểu thuyết nặng ký khác của Murakami mà tôi thường đọc hàng tháng trời, tôi đọc quyển này trong vẻn vẹn vài ngày. Đọc ngấu nghiến và bị hút vào trong nó theo đúng nghĩa đen.
Đây là một câu chuyện tuyến tính về hai tuyến nhân vật (thực ra chỉ là một người, theo cách nhìn của tôi); một người đi về nơi kết thúc, người kia đi về nơi bắt đầu. Nơi kết thúc có tên gọi Xứ sở kỳ diệu, nơi bắt đầu là Tận cùng thế giới. Đây là một điểm đặc sắc và tinh tế, nghịch lý nhưng cũng đầy ẩn ý bậc thầy, của tác giả. Kết thúc của Xứ sở kỳ diệu (nhưng) vô tình, với những con người có tâm hồn, có mục đích (thậm chí dã tâm, tham vọng) là Nơi tận cùng thế giới, một thành phố bất khả xâm phạm có tường thành vây quanh, với những con người chấp nhận bỏ đi tâm hồn của mình, giết chết cái bóng của mình, để sống, hay tồn tại theo một chức năng duy nhất, một vai trò duy nhất đã được định sẵn. Nói tới đây, hãy nhắc đến một ẩn dụ về chiếc bóng: “Muốn nói gì thì nói, bóng là cái ở gần người ta nhất”, chiếc bóng chính là bản thân chúng ta, ở một thể hiện khác. Nơi tận cùng thế giới là nơi của những con người mất bóng. Sự kết thúc của Xứ sở kỳ diệu vô tình mở ra sự bắt đầu của Nơi tận cùng thế giới.
“Cái chết là có thực, nó không phải là đối nghịch của cuộc sống, mà là một phần của cuộc sống.” – Rừng Nauy.
Hãy cho rằng sự tuyến tính của câu chuyện này có liên quan đến triết lý nổi tiếng nhất về cái chết của Rừng Nauy, mặc dù Xứ sở kỳ diệu vô tình là tiểu thuyết thứ tư Murakami viết, sau Cuộc săn cừu hoang và trước Rừng Nauy. Tôi cho rằng Murakami đã vô tình phát hiện ra một cách nhìn về cái chết trong khi viết Xứ sở kỳ diệu vô tình, và sau khi hoàn tất nó đã cắt riêng phần này đi để tiếp tục triển khai thành tiểu thuyết thứ năm của mình. Toàn bộ Rừng Nauy có vẻ chỉ là một sự mở rộng theo một hình thái biểu hiện khác của Xứ sở kỳ diệu vô tình.
Cả hai xứ sở đều có Tình yêu, và đều thuần phác. Tình yêu giữa nhân vật ở tuyến một với cô gái thủ thư là thứ tình yêu mang đến sự giải thoát để tìm về cõi chết, Tình yêu giữa nhân vật ở tuyến hai với cô gái, cũng là một dạng khác của thủ thư thư viện; hai cô gái này về bản chất chỉ là một người ở hai thể hiện khác nhau; là Tình yêu đã níu kéo lại gã này trước ý định chạy trốn khỏi Thành phố, đồng nghĩa với việc quay trở lại hố sâu địa ngục của Xứ sở kỳ diệu mà chính gã vừa từ đó thoát thai. Hai thế giới này có chung cổng vào là chiếc đầu lâu của con thú một sừng. Ở Tình yêu thứ nhất, gã đàn ông trao cho cô gái chiếc đầu lâu rồi chết đi, thực chất là trao cho số phận của gã. Ở Tình yêu thứ hai, gã đàn ông thông qua chiếc đầu lâu chở “giấc mơ xưa” để tìm lại linh hồn cho cô gái. Cái gì kết thúc ở thế giới này sẽ tìm lại ở thế giới kia theo một cách thể hiện khác. Cái chết nối dài cho sự sống mới. Chỉ có Tình yêu là vẫn thuần phác như vậy. Tình yêu dẫn đường cho gã đi vào chính mình. Xứ sở kỳ diệu vô tình là thế giới rộng lớn bên ngoài của nhân vật chính, còn Nơi tận cùng thế giới chỉ là thế giới ở bên trong của gã.
Theo dòng sáng tác, Xứ sở kỳ diệu vô tình là tiểu thuyết thứ tư của Murakami; tôi chưa đọc Lắng nghe gió hát (tiểu thuyết đầu tiên) và Pinball (tiểu thuyết thứ hai), nên không dám chắc lắm, nhưng rất có thể Xứ sở kỳ diệu vô tình là tiểu thuyết đầu tiên Murakami viết theo lối tuyến tính – lối viết đã trở thành kinh điển của Murakami mà sau này sẽ gặp rất nhiều ở Kafka bên bờ biển và đặc biệt là 1Q84. Ngoài tuyến tính trên khía cạnh các nhân vật khác nhau, sự tuyến tính về thế giới song song ở Xứ sở kỳ diệu vô tình cũng dường như đặt nền móng cho sự xuất hiện dày đặc các thế giới song song sau này trong các cuộc hành trình kỳ quặc của phần lớn tiểu thuyết Murakami: Nhảy nhảy nhảy, Biên niên ký chim vặn dây cót, Người tình Sputnik, 1Q84… Những thế giới song song nhưng cũng giao cắt, hoặc dần dần chập vào một.
Xứ sở kỳ diệu vô tình dường như có một ý nghĩa hết sức đặc biệt trong việc sáng tác của Murakami. Quyển tiểu thuyết này trao cho Murakami một quyền năng đặc biệt, giúp ông mở ra những cánh cửa cho mình. Những tiểu thuyết sau này của Murakami, tôi cho rằng, phần lớn đều lấy từ những mảnh nhỏ nào đó trong Xứ sở kỳ diệu vô tình mà triển khai ra, kể cả những kiệt tác đồ sộ như 1Q84 đi nữa.
Xứ sở kỳ diệu vô tình có ẩn dụ về mọi thứ. Hay nói cách khác, mọi thứ ở đây đều là ẩn dụ, và đặc biệt nhiều. Ẩn dụ từ thiên nhiên: Rừng. Núi. Sông suối. Mây. Thời tiết. Ẩn dụ về Thành phố, đường hầm, lòng đất. Ẩn dụ về các thế lực: Con người. Thiên tài. Ma quỷ. Ẩn dụ về Thiện, Ác. Ẩn dụ về giấc mơ, về tâm hồn. Ẩn dụ về thú vật: Thú một sừng, chim chóc. Ẩn dụ về sự sống, cái chết. Mọi thứ đều là ẩn dụ, đều là khái niệm. Cuốn tiểu thuyết này là một khu rừng về ẩn dụ, trùng trùng điệp điệp. Ngay cả cách ví về khu rừng, cũng là một ẩn dụ nốt.
Chính vì cả cuốn sách là một sự ẩn dụ, nên nó chân chính từ chối những nỗ lực để hiểu cho trọn vẹn. Ở đây cần một sự thấu thị. Chính vì nó có quá nhiều cánh cổng vào mở ra, nên nó cũng đòi hỏi những sự đọc đi đọc lại nhiều lần.
Có lẽ là sự tình cờ, tôi đọc quyển tiểu thuyết này ở nửa cuối năm ngoái cho đến khi sang năm mới (lịch âm), giống như hai tuyến truyện của kết thúc và bắt đầu vậy. Quyển tiểu thuyết này cũng thực sự chạm đến tôi nhất ở những góc sâu khuất rất khó động đến, không phải chỉ bởi vì cái giao cắt nhất định đối với Bóng, hay những triết lý mang tính bản lề mà tôi sẽ còn kế thừa được rất lâu sau này, mà còn ở một cái nhân duyên nào đó từ một cánh cửa đã mở ra, rốt cuộc cũng để tôi đi vào chính mình, ở một tầng sâu hơn từng biết đến.
“Cioran dạy tôi rằng muốn suy nghĩ thì phải ở chiều ngang. Và qua rất nhiều điều không liền lạc với nhau, tôi hiểu ra ông ấy muốn dạy cho tôi một điều rất quan trọng: đọc có ba cấp độ, cấp độ một là đọc để biết những điều mình chưa biết, cấp độ hai là đọc để biết rằng những gì mình tưởng là đã biết hóa ra mình còn chưa biết, nhưng cấp độ ba mới là đỉnh cao, đọc là để biết rằng những gì mình tưởng còn chưa biết hóa ra mình đã biết rồi, chỉ là chưa bao giờ học được cách lôi nó ra từ sâu thẳm đâu đó bên trong con người bí ẩn muôn trùng, tức là bản thân chúng ta.” – Nhị Linh
Văn chương, xét cho cùng là để chúng ta đi tìm từng chút một những mảnh vụn của mình (câu này cũng là ý của Nhị Linh nốt).
Tôi thích tiểu thuyết này của Murakami bởi lẽ ông đã viết một cách rất thoải mái, dù đề tài mà ông tiếp cận (sáng tạo ra một thế giới mới, thế giới ở bên trong) không hề nhỏ, thậm chí nó thực sự lớn. Phạm vi quy mô của những chủ đề mà cuốn sách này tham vọng nói đến rộng lớn vô cùng, và tôi tin rằng nó lớn hơn cả khả năng, bút lực của ông thời đó (quãng 1985, chỉ vài năm sau cái tuổi hai mươi chín khi Murakami quyết định trở thành nhà văn); nhưng ông đã xoay sở một cách nhẹ nhàng để đưa mọi thứ ở trong tầm kiểm soát và vẫn đạt được đến mức độ chất lượng cao cho từng thứ mà ông muốn nói đến. Về sau bút lực mạnh mẽ hơn, và liên tục đẩy giới hạn sáng tạo của mình lên nhưng đôi lúc Murakami vẫn sẩy chân một cách phí phạm. Đọc thêm về cú thất bại của Murakami với 1Q84 tại đây.
Đây là một tiểu thuyết hết sức vô khuyết, nhưng cũng đừng coi nó là một thứ hoàn hảo. Về sự hoàn hảo, bản thân hai xứ sở trong cuốn truyện này cũng là thể hiện của hai thế giới hoàn hảo, nhưng chính trong sự hoàn hảo đó có mầm mống của đổ vỡ, của sự bất toàn. Nơi tận cùng thế giới thiếu linh hồn, còn xứ sở kỳ diệu vô tình thì thiếu ước mơ.
Thế giới hoàn hảo bởi sự bất toàn như thế.
February 1, 2017 Leave a comment
Bóng
Chiếc máy bay vụt lên tầng không đúng lúc nhạc mở bài Snow (Hey oh) của Red Hot Chili Peppers, một giai điệu sôi động, phấn khích. Cùng lúc đó, tôi cũng đang đọc đến đoạn nhân vật chính ở tuyến thứ hai của cuốn tiểu thuyết Xứ sở kỳ diệu vô tình và nơi tận cùng thế giới tìm được nhạc cụ trong khu nhà kho ở trong rừng. Rất nhanh chóng, máy bay rời bỏ thành phố, vượt lên làn sương mỏng ngăn cách không khí nặng nề tù đọng ở phía dưới với lớp chân không nhẹ bỗng ở bên trên. Tôi bắt đầu cảm thấy lơ lửng, trọng lực dường như quên mất vai trò của nó mỗi khi máy bay lướt nhẹ trên không. Nhìn ra cửa sổ, thành phố đã hoàn toàn luẩn quất sau mây. Chiếc máy bay nằm trọn vẹn trong những đụn mây khổng lồ mịn màng. Bốn phía là mây, trải rộng đến vô cùng. Có cảm giác thực ra máy bay cứ đứng im một chỗ như thế, lười biếng nép mình vào những đám mây dịu dàng, trôi dạt đi bởi gió chứ không còn bay nữa. Ở trên mây, mọi thứ đều trở nên lặng lẽ, uể oải. Có một cảm giác cực kỳ hạnh phúc khi nghe Snow (Hey oh) ở thời khắc máy bay lướt lên không trung; thêm nữa, nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết kỳ thú mà tôi đang đọc cũng tìm được chiếc nhạc cụ, chính xác là một chiếc Phong cầm (mà về sau chiếc Phong cầm này có vai trò chìa khoá quan trọng), làm tôi cảm thật tương hợp giữa cả ở ngoài đời và trong sách. Âm nhạc tràn ngập không gian xung quanh tôi theo đúng nghĩa đen, chúng ngấm vào từng tận tế bào, lan đến từng mạch máu, trôi vào sâu thẳm tâm hồn.
Tôi đang bay về nhà để ăn Tết.
Máy bay không còn một chỗ trống, sân bay chật ních người, phần lớn trong đó là người Việt cũng đang háo hức về ăn Tết như tôi. Mắt họ lấp lánh một niềm hạnh phúc xum họp. Đã quá lâu rồi họ chưa trở về nhà chăng? Từng đoàn người hồi hương về xum họp trong lịch sử loài người đều là những cuộc di cư vĩ đại. Như những cánh chim thiên di tránh rét rồi trở về, chúng ta không được phép quên nguồn. Tuổi trẻ có cái khao khát hăm hở đặc trưng, đó là: Đi! Đôi khi là chạy trốn, chối bỏ, chán nản chính nơi chốn mình sinh sống, thèm khát được ra đi, được theo thuyền đón sóng, lênh đênh trên những cuộc hành trình mới mẻ, trôi dạt về đâu cũng được. Nhưng bên cạnh cái háo hức của Đi, sau những cuộc dấn thân ngật ngưỡng vào cuộc đời, nhựa sống tuổi trẻ đã bị bào mòn đi ít nhiều nhiệt huyết, người ta sẽ có một tâm lý bồn chồn ngang ngửa, đó là Về! Văn chương đã nương tựa vào hai đầu của cuộc hành trình bản chất nhất của con người mà hoài thai ra rất nhiều kiệt tác.
Tôi nhập vào đoàn người trở về lê thê ấy.
Chuyến bay kéo dài hơn một tiếng rưỡi đồng hồ, tôi có từng đó thời gian để kết thúc nốt cuốn tiểu thuyết của mình.
Tôi đã biết Hà Nội hôm nay sẽ không lạnh ngay từ khi chập chờn nhìn thấy nắng phát tán dưới tầng mây gần mặt đất nhất. Murakami bảo người ta hiểu đôi chút về thời tiết, nếu ngày nào cũng theo dõi các chuyển động của mây; tôi thì vừa ở trên mây xuống, nên tôi không bất ngờ trước cái nóng nực của mùa đáng lẽ ra phải là Đông đang không ngừng chói chang bốn phía. Mùa đông năm nay quá độ sớm quá, những mùa đông kỳ quặc cứ ấm dần lên và qua đi thật nhanh làm người ta sửng sốt có thật sự còn mùa đông hay không, hay nó chỉ làm một biến thể của mùa gì đó lai giữa mùa thu và mùa xuân, hay mùa xuân và mùa hạ, hay là một sự trộn lẫn của cả ba, để rồi tạo thành một thứ mùa rất không có màu sắc. Cái mùa đông bàng bạc khiến người ta run rẩy yêu nhau đã không còn nữa, kéo theo nó những sự xa nhau rất đỗi vô tình.
Nhưng mặc kệ cái nắng nóng phi lý, không khí Tết vẫn thấm đẫm từ cả lớp sương mỏng bao trùm thành phố ở trên cao. Tết làm người ta vội vã hơn, tất bật hơn, nhưng đồng thời cũng làm người ta tử tế hơn. Tôi thấy những kẻ cứ ra rả đòi bỏ Tết cổ truyền đều là những kẻ ngu xuẩn. Lý lẽ của họ đều có vẻ hợp lý, đôi khi hợp lý đến giả dối, nhưng người ta quên mất một điều là Tết, trong phạm vi khái niệm bản chất nhất của nó, vốn dĩ chẳng có gì xấu. Quốc gia nào mà chẳng có ngày lễ Tết của mình? Chính con người và những thứ bày vẽ phù phiếm xung quanh Tết mới làm cho nó trở nên xấu xí đi. Trong một năm có vài tuần tự dưng vật giá leo thang hẳn lên đến mức phi lý, dịch vụ thì đi xuống, xong rồi con người lao vào vòng xoáy của cúng bái, lễ lạt, bon chen gồng gánh trong những sự chuẩn bị phung phí để có một cái Tết “đủ đầy” dù họ biết rõ rằng những thứ hình thức như vậy chỉ là họ một nghèo nàn đi. Cái chúng ta cần đâu phải là bỏ Tết đi, chúng ta cần là phải bỏ hết hủ tục đi đấy chứ. Mà mặc kệ lũ người ngu xuẩn đang bi kịch hoá Tết đi, hoặc thống thiết kêu gào phải gộp chung Tết này Tết nọ, tôi thấy chúng rặt là một lũ rởm đời. Khi chúng ta chọn nhìn vào cuộc đời bằng cái nhìn đầy bi kịch, thì cuộc đời xung quanh cũng sẽ chỉ ngập tràn bi kịch. Tôi vẫn luôn nhìn vào Tết bằng đôi mắt háo hức đã in hằn vào ký ức bé thơ, dù đã không còn bé nữa. Khác với mọi người cứ luôn tất bật, tôi chỉ đơn giản tận hưởng Tết theo cách nhẹ nhàng nhất.
Về đến nhà, đã được dọn sạch tinh tươm bởi mẹ (thật là biết ơn mẹ!), cùng một số đồ đạc cũ đã được tống khứ đi, căn nhà trông trống hoác hẳn đi so với kiểu của tôi vẫn ở. Mẹ thậm chí còn cắm một lọ hoa để trên bàn, càng làm nó không giống kiểu của tôi ở hơn. Nhưng dù sao bó hoa rất đẹp, mang đến một sắc thái mới mẻ lạ lẫm. Nhờ có mẹ qua chăm sóc hộ mà căn nhà này không có vẻ một căn nhà vô chủ đã lâu mà vẫn có mùi của con người. Cảm giác của tôi giống hệt như cảm giác của nhân vật chính trong Xứ sở kỳ diệu vô tình khi trở về nhà sau một cuộc đi vào lòng đất tối tăm, khủng khiếp; căn nhà đã được một “lực lượng vệ sinh” bí ẩn chu đáo dọn sạch từ bãi chiến trường (sau này nhân vật chính phát hiện ra người dọn nhà cho gã là cô thủ thư ở thư viện, khởi đầu cho một tình yêu oái ăm nhưng cũng rất đẹp). Thấy nhà cửa ngăn nắp khi trở về là một cảm giác tuyệt vời.
Nhưng tôi biết căn nhà này cần nhiều hơn thế để có cảm giác là nhà tôi. Nhìn quanh một lát, tôi định sẽ chạy đi mua một cành đào rừng trang trí để có không khí Tết, và giăng đèn neon các thứ nữa. Hôm nay là hai mươi chín Tết. Không phải quá sớm cho các việc mua sắm nữa. Tôi quyết định sẽ chẳng mua gì cả. Dẹp hết mấy trò đào, quất với cúng bái lễ lạt đi, tôi chỉ muốn cái Tết này sẽ thật nhẹ nhàng và nhẹ nhàng. Cần gì cứ phải có đào, quất thì mới có Tết cơ chứ. Bà ngoại tôi không may qua đời vài tuần trước nên Tết này nhà tôi sẽ hầu như chẳng đi đâu chúc Tết ai cả. Ngoài một số người thân thiết, tôi không có nhu cầu đặc biệt phải gặp ai (các Tết trước tôi vẫn đều đi thăm anh em bạn bè khá đầy đủ), nên về cơ bản thì tôi sẽ có bốn ngày Tết hoàn toàn nghỉ ngơi. Có lẽ tôi sẽ chỉ dọn dẹp qua nhà cửa một chút, chuẩn bị ít bánh kẹo trong trường hợp nhà có khách, mua một ít rượu, đón con mèo về, thay ga gối; đã đến lúc phải thay ga gối rồi, tôi cần một cái mùi khác trong căn nhà mình, mùi hương – đôi khi chúng mang ý nghĩa rất gần với linh hồn, phải, tôi cần căn nhà có một diện mạo khác, một linh hồn khác, nó đã quá cũ kĩ; và chuẩn bị dăm cuốn sách để đọc. Tôi không nghĩ ra việc gì đặc biệt hơn để làm nữa.
Tôi chạy ra phố một lúc, cái nắng nóng giờ tan tầm đã tiêu tan bớt đi bởi không khí lạnh khe khẽ tràn về. Hai chín Tết nhưng ngoài đường vẫn đông đúc đến đáng ngạc nhiên. Mọi người hối hả, tấp nập, nhưng không ai căng thẳng như người ta vẫn hay kêu ca. Tôi mang bộ chăn ga gối mới từ mẹ về và đón cả ChiChi. Lần này về thì chỉ còn mỗi ChiChi thôi, tôi bỗng thấy nhớ Tuti da diết, nó còn chưa có nổi một cái Tết đầu tiên. Về đến nhà, tôi nhanh chóng thay bộ ga gối cũ, vứt hết đống quần áo bẩn vào máy giặt, đốt tinh dầu lên, xịt phòng, cho mèo ăn, bật nhạc. Căn nhà đã có dáng vẻ của tôi hơn. ChiChi hoảng hốt một chút lúc đầu khi mới về rồi sẽ quen ngay với địa bàn mới, nhanh chóng lăn ra ngủ. Mùi tinh dầu toả ra khắp nhà mang lại khoái cảm dễ chịu. Không gian tôi sống cứ phải có một chút mùi hương dụ hoặc thì mới chịu được. Đã xong hầu hết mọi việc quan trọng, tôi đột nhiên rất thèm uống rượu vang nên khui một chai dở ở trên kệ xuống, mang ra sofa nằm đọc sách. ChiChi vừa tỉnh ngủ, đang lục lọi gì đó ở xung quanh. Mùi của mèo là một phần trong linh hồn của ngôi nhà này. Âm thanh có sức sống nhất ở đây là tiếng gừ gừ của mấy con mèo khi chúng yên tâm dựa dẫm vào người tôi ngủ. Nhạc đang chơi của Regina Spektor, album Essentials, vang lừng cả không gian xung quanh, tẩy trần đi không khí trầm mặc. Căn nhà đã tiếp nhận tôi trở về.
Tôi ngồi ở sofa, uống vang đỏ, ăn thịt bò khô. Mặc kệ là thịt bò khô có hợp nhắm với vang đỏ hay không. Lần cuối tôi uống vang là đợt Lộc về Việt Nam mấy tuần trước. Chúng tôi uống vang, đôi khi uống lẫn cả whiskey pha đá lạnh, đến khi nói năng tếu táo thì đi ngủ. Những cơ hội ngồi với bạn thân như thế trong cuộc sống hiện đại càng ít, và càng đáng quý trọng. Tôi đọc nốt tiểu thuyết Xứ sở kỳ diệu vô tình. Đôi khi tôi thấy mình trong chính cuốn tiểu thuyết ấy. Có đoạn nhân vật chính cũng trở về nhà, cởi quần áo, chui lên giường và nhâm nhi whiskey. Đối với gã, đó là một nghi thức ngọt ngào khi đi làm về, là mấy phút đồng hồ yêu thích. Hắn cũng mang sách lên giường đọc và nghe nhạc như tôi. Gã yêu mấy phút ấy như người khác yêu mặt trời lặn hay yêu không khí trong lành. Một tiểu thuyết thật sự tuyệt vời. Tại sao tôi lại bỏ lỡ tiểu thuyết này của Murakami nhỉ? Nếu nói nữa thì tôi sẽ chỉ sa đà vào tán dương, nên tôi sẽ dành kể về cuốn sách nặng ký đầy thu hút này vào một lần sau. Regina Spektor đang hát đến The Call, bài hát tôi đã mê say từ rất lâu. Giọng của nàng da diết, sương khói, đầy ám ánh. It started out as a feeling, which then grew into a hope. Mọi thứ bắt đầu bằng một xúc cảm vu vơ, bỗng biến thành một niềm hi vọng lớn lao sau đó… Cuộc đời có khi đổi thay hoàn toàn từ những khởi đầu giản dị như thế. Những nhân duyên đã đến và sẽ đến. Chúng mình sẽ và chúng mình sẽ.
Chai vang đã hết. Đêm còn rất dài. Tôi quyết định uống nốt chỗ whiskey pha đá lạnh còn lại. Một cảm giác chập chờn xuất hiện. Ánh sáng trong căn phòng không hiểu sao tối dần, như thể ánh sáng đã bị rút đi đâu mất; thay vào đó là ánh trăng dội từ cửa sổ vào, nhưng tôi biết chắc là không hề có trăng ở ngoài kia. Ánh sáng vàng vọt phát tán vào từ bên ngoài trông rất giống ánh trăng, nhưng tuyệt đối không phải, nó chỉ là một thứ gì đó giống trăng mà thôi. Ánh sáng chiếu thẳng vào chỗ tôi ngồi, như thể đèn sân khấu chiếu vào người biểu diễn, khiến cho không gian xung quanh trở nên tăm tối. Tôi cũng không để ý lắm, cứ thế ngồi uống nốt chỗ whiskey còn lại. Chiếc bóng của tôi trải dài đến tận chân tường, nhờ ánh trăng (hoặc một thứ gì đó giống như ánh trăng) mà nó trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Tôi ngồi đó, lặng lẽ nhìn vào chiếc bóng của mình.
Cho đến khi tôi cảm thấy, chiếc bóng hình như không làm theo đúng các động tác của mình nữa.
Cụ thể là khi tôi nâng cốc whiskey lên để hớp cho cạn, cái bóng vẫn khoanh tay ngồi đó nhìn tôi.
Nó cứ nhìn chằm chằm vào tôi, như lúc nãy tôi nhìn chằm chằm vào nó.
Cũng có lẽ tôi đã uống quá nhiều whiskey, nhưng rõ ràng là tôi không thể nhầm được. Chiếc bóng vẫn ngồi đấy, cái tư thế vừa xong của tôi, và nhìn chằm chằm vào tôi. Hay là cái bóng đã bị đóng băng, hoặc giả nguyên lý ánh sáng thế nào đó đã khiến cái bóng không thể di chuyển được theo chính chủ của nó nữa nhỉ?
Tôi chịu không hiểu nổi, bản thôi tôi cũng không dám chắc có thực ở đằng trước mặt mình là cái bóng hay không; mọi thứ cứ lấp loá bởi thứ ánh sáng le lói chiếu rọi từ ngoài vào, làm tôi không phán đoán nổi tôi đang nhìn vào cái gì, đang ngồi ở đâu nữa. Có thể tôi đã ngủ rồi cũng nên.
Nhưng tôi thấy không thoải mái lắm khi ở đằng trước là cái bóng đen cứ nhìn chằm chằm vào mình, tôi còn cảm giác nó đang thiểu não nữa, y hệt nỗi thiểu não của tôi, nên tôi quyết định thử đứng dậy, biết đâu sẽ thoát khỏi cái ảo giác whiskey này. Cái bóng vẫn ngồi đấy. Nhưng rất chậm thôi, nó từ từ đứng dậy, dối diện với tôi.
Tôi biết là sẽ phải chấp nhận sự kì quặc này. Hay là ma chăng? Tôi vốn vô thần nên không tin vào ma quỷ lắm. Ma quỷ chỉ là khái niệm. Con người tạo ra ma quỷ chính là từ nỗi sợ hãi của mình. Nhưng cũng có thể có ma thật, ai mà dám chắc được. Nhất là trước mặt tôi đang là một cái bóng đen kì quặc cứ chằm chằm nhìn mình. Nhưng nếu có là ma thì tôi cũng đếch quan tâm. Ma quỷ mà là phản vật chất thì nó cũng sẽ chẳng làm gì được mình, còn nếu là vật chất thì tôi sẽ dễ dàng đấm chết nó, nếu quả thật nó cân bằng với người về mặt sức mạnh. Tôi trở nên ít sợ ma quỷ ,cái chết hơn sau khi chứng kiến người ta bốc mộ ông bà tôi vài năm trước. Đêm đó, tôi ngồi giữa cánh đồng, canh mộ của hai ông bà để chờ đến giờ làm lễ và thay áo quan. Nửa đêm rất lạnh, bãi tha ma đông nhung nhúc các ngôi mộ liền kề, nhưng tôi không hề thấy sợ hãi, thậm chí còn gà gật được. Có lẽ ông bà tôi đã phù hộ yên lành cho tôi chăng. Trong tôi chỉ ngập tràn một nỗi nhớ tiếc ông bà khi còn sống, và niềm thanh thản khi được ở gần ông bà vào đêm đó đến vậy.
Cái bóng đen của tôi nhìn tôi một lúc, rồi nó lặng lẽ bước đi, mặc cho tôi sửng sốt đối diện. Bóng đi khắp phòng khách, sờ mó vào khắp nơi, ở chỗ nào cũng tỏ ra luyến tiếc, đau khổ. Tôi ái ngại thay cho nó. Rồi tôi thấy nó đứng rất lâu ở trước bếp; bỗng ôm lấy một cái bóng khác, bóng của một người phụ nữ bỗng đâu xuất hiện, từ đằng sau, cũng được tạo ra từ ánh trăng vàng vọt ở bên ngoài. Hai chúng nó có vẻ quấn quít. Một lúc sau, chúng buông nhau ra, rồi bắt đầu xoay xở ở bếp để làm gì đó thoăn thoắt mà tôi hiểu là đang nấu nướng. Hai cái bóng cứ nhảy nhót quấn quít như thế, trong khi vẫn làm các động tác trông rất giống như thái thịt hoặc chiên xào gì đó. Hẳn là một bữa thịnh soạn. Tôi vừa sợ hãi vừa tò mò cứ ngây dại nhìn ngắm hai cái bóng ngu xuẩn không biết ở đâu ra làm hết trò này đến trò khác ở nhà mình. Nhưng nhìn ngắm chúng, tôi nhớ đến một thời quá vãng xa xôi mà ký ức của mình đang trở nên mờ mịt hết cả.
Một trong hai cái bóng biến mất, chỉ còn lại bóng của tôi. Nó ra bàn ăn ngồi một mình, lặng lẽ nhìn vào chiếc bình mang tro cốt của con Tuti ở góc tủ. Rồi tôi thấy bóng của con Tuti nhảy lên lòng nó, kêu gừ gừ rất thật. Bóng của Tuti hơi khác một chút, không đen kịt như bóng của tôi mà có hình dáng màu sắc hơn hẳn. Nói cho đúng ra, bóng của Tuti dần trở thành một phiên bản của chính nó, không phải bóng nữa, mà là hình thật, với lớp lân tinh le lói bao phủ xung quanh lớp lông bóng mượt của nó. Tôi dần nhìn thấy bộ lông của nó, đôi mắt của nó, đôi tai vểnh ngược lên của nó, và cái đuôi dài như đuôi cáo tuyệt đẹp của nó, rõ ràng như thể nó đang thực sự ở đây. Tôi thấy bóng của tôi cầm con chuột đồ chơi lên vứt sang một góc, tức thì Tuti sẽ lao theo ngay để nhặt lại, tha về chỗ cũ. Đây là trò mà tôi vẫn hay chơi với con Tuti, không phải con mèo nào cũng biết tha hồ về chỗ cũ như vậy. Rồi tôi thấy Tuti nhảy nhót, đùa giỡn với chiếc bóng của mình. Tuti chạy đến đâu thì đám lân tinh bao quanh nó đi theo đến đó, làm rực sáng cả một góc phòng.
Khi Tuti biến mất, đám lân tinh kia cũng dần tan biến vào hư không. Đôi mắt của Tuti biến mất sau cùng, nhìn thẳng vào tôi, tròn xoe ngơ ngác, như lần đầu tiên tôi mang nó về nhà.
Tôi mệt mỏi ngồi thụp xuống sofa. Chai vang và whiskey lăn lóc. Tôi với lấy cốc whiskey đã tan ra vì đá, húp cho cạn nốt dù không còn gì. Những ký ức nặng nề đè nặng xuống vai tôi, sức nặng của nó khiến không khí xung quanh cũng trở nên cô đặc, ngột ngạt. Tôi mở cửa ra cho thoáng dù không có một cơn gió nào. Ánh trăng vẫn xanh xao ở đằng xa, chiếu vào tôi yếu ớt, nhưng xuyên thấu tâm trạng tôi một nỗi cực cảm vô bờ.
Chiếc bóng ngồi xuống đối diện tôi, tiếp tục nhìn chằm chằm vào mình. Tôi và nó, như hai cái bóng, nhìn chằm chằm vào nhau như hoá đá, dù tôi biết tôi chẳng thực sự nhìn vào cái gì. Tôi chỉ thấy lấp lánh một nỗi buồn thảm trong ánh nhìn của nó, soi vào đó tôi còn thấy mình buồn thảm hơn. Rồi tôi nhận ra chiếc bóng đen kịt của mình dần có hình dáng, nó không chỉ là một chiếc bóng phẳng dẹt nữa mà đã hoàn toàn trông giống con người, hay là giống chính tôi. Lớp da thịt của nó đổi sang màu hồng, đôi mắt của nó phát sáng ấm áp trong đêm, tôi thậm chí dường như còn nhìn thấy nó mấp máy cười qua chuyển động rất khẽ ở làn môi. Bóng đặt một tay lên vai tôi. Tôi đưa tay ra chạm vào nó. Nhưng bàn tay tôi đã không còn sức nặng thông thường nữa mà trở nên nhẹ bẫng. Tôi thấy mình biến dần thành một màu đen kịt.
Có thể tôi đã trở thành chính chiếc bóng của mình. Trong khi nó biến thành tôi. Nếu thế thì khi ánh trăng kia không còn nữa, tôi sẽ biến mất chăng. Điều đó ngang gì là cái chết? Mà nếu chết thì sao, tôi càng không quan tâm. Đã từ lâu, ham muốn được chết của tôi cũng lớn như ham muốn được sống, đôi khi còn lớn hơn. Như Murakami nói, bản thân cái chết không làm tôi sợ lắm. Như lời Shakespeare: Ai chết năm nay thì năm sau khỏi phải chết. Tôi không có quá nhiều thứ đặc biệt phải luyến tiếc ở cuộc đời này, thế thì có gì đáng sợ đâu? Người ta ai cũng phải chết kia mà, nhất là khi tôi có thể sẽ chết khi đã trở thành cái bóng của cái bóng của mình, như thế thì lại tuyệt đối không có gì đáng tiếc.
Cái bóng đặt tay lên tôi, tôi biết là nó muốn an ủi cho những vết thương tôi đã mang trong lòng. Nhìn rất sâu vào đôi mắt đang trở nên đen kịt của tôi, ánh mắt của nó soi chiếu đến tận cùng sâu thẳm tâm hồn còn sót lại chưa bị đóng băng đen kịt. Tôi thấy đôi mắt của nó toả ra một đám lân tinh nhỏ rực rỡ như những ngọn lửa, dịu dàng phủ xuống quanh tôi như những thiên sứ phúc lành.
Ánh trăng yếu dần rồi tắt hẳn. Bóng của tôi thoi thóp dần rồi biến mất trong hàng vạn điểm lân tinh rơi rớt. Màu đen kịt trên cơ thể tôi biến mất, trả lại hình dạng nguyên thuỷ con người cho tôi.
Whiskey bắt đầu phát huy tác dụng. Tôi biết là mình không thể cưỡng lại được nữa. Cơn buồn ngủ xâm chiếm dữ dội như cuộc xâm lăng của người ngoài hành tinh khác. Tôi bị kéo tuột vào giấc ngủ như rơi xuống vực thẳm. Tiếng kêu của con Tuti là âm thanh cuối cùng tôi kịp nghe thấy.
Ở ngoài kia ngập tràn cái âm thanh ấy, âm thanh của im lặng.
Sáng hôm sau thức dậy, tôi biết mình đã trở thành một người khác. Bóng cũng là người mà người cũng là bóng. Cái bóng đã không còn tách rời tôi nữa.
Ngôi nhà này cần có linh hồn.
Tôi đi tìm linh hồn cho nhà mình.
Biết không em…
February 1, 2017 Leave a comment
Phương
Trên chuyến bay hôm ấy, tôi đã nghe toàn bộ nhạc của Lê Uyên Phương. Cứ lúc nào cần tìm một thứ gì đấy, tôi lại nghe Phương. Một thứ gì đấy, nếu ai nghe hoài hoài thứ nhạc khắc khoải lo âu của gã trai giang hồ phiêu bạt, sẽ hiểu. Âm nhạc của Phương tràn đầy một sự giục giã. Giờ này còn nhìn nhau, ngày mai ta không còn thấy nhau.
Nơi đây, khoảnh khắc này, và ký ức.
Mười năm kể từ nghe tân nhạc; khởi sự bằng Trịnh, tôi đã nương theo dòng chảy tình ca mà tiến tới rất nhiều tri kỷ. Dòng chảy ấy lần lượt cuốn vào trong nó những lời thống khổ của Trầm Tử Thiêng, Từ Công Phụng, Phạm Đình Chương, rồi chầm chậm đưa đẩy tôi về miền đồi nắng gió Đà Lạt để gặp Phương, tri kỷ sau cùng.
Mang trong người dòng máu giang hồ của thân phụ, ở tuổi đôi mươi, Phương đã đi bôn ba khắp miền duyên hải, làm đủ mọi nghề để kiếm sống, trước khi trở về lại Đà Lạt và khởi sự sáng tác. Âm nhạc của Phương là âm nhạc dành cho những tâm hồn trôi dạt, để kệ cuộc đời lặng lẽ cuốn đi. Tôi không có thiện cảm mấy với những kẻ sắp xếp cuộc đời ngăn nắp, cầu toàn, toan tính định trước, bám víu vào sự an toàn, cả đời chỉ ở trong một thứ; tôi luôn thấy ở họ nỗi sợ hãi những sự thay đổi, mà lại còn cực kỳ nhàm chán. Tôi chỉ thấy thu hút với những kẻ vứt bỏ cuộc đời mình trên những con thuyền lênh đênh dạt sóng, những kẻ bất quy tắc, những kẻ chấp nhận dấn thân, vượt ngoài khuôn khổ. Những kẻ trôi dạt liều lĩnh ấy chẳng còn gì để mất, nên đồng thời cũng chất chứa rất nhiều chân thật.
Phạm Duy nhận xét âm nhạc của Phương là thứ âm nhạc không mang tham vọng lớn, hoàn toàn thuần tuý chỉ là âm nhạc của dục tình. Tôi cũng thấy những kẻ mang tham vọng lớn thật là thống thiết, họ cứ cố leo lên cao mãi, đôi khi xảy chân vào vực thẳm cuộc đời không sao trồi lên lại nổi. Ngược lại, những kẻ mong ước nhỏ nhoi, thậm chí không mang tham vọng, cứ thản nhiên đi theo bản năng vẫy gọi, lại rất nhiều khi dựng xây được những kỳ tích phi thường. Lê Uyên Phương chính là nhạc sĩ lớn nhất của Việt Nam, nhạc sĩ tuyệt đối, nếu chỉ xét về phương diện tình. Phương đã sáng tạo ra hẳn một dòng nhạc; trước chưa có dòng nhạc nào như thế, sau này cũng không có dòng nhạc nào như thế, chân chính biểu trưng cho tình yêu ở mức độ cao nhất, và thuần tuý nhất, của nó – dục tình.
Tôi nhớ đến Phương của quãng thời gian rạo rực tuổi trẻ, ngồi lặng lẽ bên Lê Uyên trên đồi thông Đà Lạt, trao cho nhau những hẹn thề nắng gió. Thời đó gã giang hồ đã gần ba chục tuổi đầu, chẳng còn lành lặn sau những đổ vỡ và phiêu bạt đường đời, mang trên mình rất nhiều vết thương, bỗng phải lòng cô bé con gần nhà, lúc đó mới ở tuổi đôi mươi, còn ham bay nhảy; mà không biết rằng đó chính là thú đau thương định mệnh sẽ đi theo suốt kiếp. Chúng ta có Phương từ lúc đó. Nhưng mầm mống bệnh tật, cùng cấm cản nghiệt ngã của gia đình, đã không cho chàng được tự do yêu đương, nỗi ám ảnh chia lìa đã yểm vào âm nhạc của Phương những lời ca vùng vẫy, tuyệt vọng, càng khiến cặp song ca tài tử đó quấn quít nhau hơn trên sân khấu, và trong những nốt nhạc. Chàng ôm đàn, nàng hát, tình tứ như trong cuộc ái ân. Cuộc tình trốn chạy và hạnh ngộ mười lăm năm từ thủa hồng hoang Đà Lạt ấy đã hoàn tất cuộc đời khắc khoải của gã trai giang hồ trong những bản tình ca buồn bã.
Mỗi khi thấy mình chấp chới lo âu, tôi lại nhớ đến Phương. Tôi đã không biết là Phương sẽ có ý nghĩa đối với mình như thế, cho đến khi âm nhạc đó nói cho tôi hiểu, những đổ vỡ, đắng cay chỉ là để thú đau thương được nếm trải đến tận cùng.
Cho tôi yêu em nồng nàn
Cho tôi yêu em nồng nàn
Dù biết yêu tình yêu muộn màng
(Tình khúc cho em)
February 1, 2017 Leave a comment
Lân tinh
“Céline có một quan niệm rất đơn giản về bất hạnh: nhìn chung, ta chẳng bao giờ thực sự biết về bất hạnh của người khác, nếu người đó vẫn ngủ được, thì chẳng có gì là bất hạnh cả, chỉ cần ngủ, mọi thứ còn lại không mấy ý nghĩa” – (Nhị Linh).
Một giờ đêm, không ngủ được, tôi quyết định ra ngoài đi bộ. Lần cuối cùng tôi thực sự bị mất ngủ, tháng bảy thì phải, cũng không gần đây lắm. Còn rất ít thứ có ý nghĩa đến mức có thể khiến ta trằn trọc ở trên giường. Mọi thứ vô nghĩa bị đốt thành tro bụi ngay khi mặt trời lên. Nắng mới là thứ có khả năng tàn sát thảm khốc. Chỉ cần ngủ, mọi thứ còn lại không mấy ý nghĩa, vì khi thức dậy chúng ta đã trở thành một người khác. Giấc ngủ cuốn trôi đi hết thảy. Những dư âm thoáng chốc của ngày hôm qua.
Tôi rẽ trái ở ngã tư, đi thẳng đến một nơi tôi chưa từng đến bao giờ, ngang qua nhiều ngõ nhỏ đặc biệt tối. Tôi trở nên không còn e dè bóng tối nữa khi đã nằm trong cái bóng tối tuyệt đích của đường hầm trong ngôi chùa Thanh Thuỷ ở Kyoto. Hai bài By the way và Californication của Red Hot Chili Peppers được ngẫu nhiên bật liền nhau. Xác suất để hai bài tôi thích nhất được bật liên tục là vô cùng thấp, mới chỉ có một lần; thế mà đêm nay chiếc iPhone lại chiều tôi như vậy. Tôi đã từng nói là giữa tôi và chiếc điện thoại có một mối quan hệ tâm linh nào đó, trong hầu hết trường hợp nó thường biết tôi muốn nghe gì, để hoặc là nâng tôi dậy hoặc là dìm tôi hẳn xuống đáy – như thế nào thì cũng đều tốt cả vì sợ nhất là cứ trôi ở lưng chừng. Chúng ta lost nhất là bởi không ngã hẳn về bên nào mà cứ chới với ở chỗ không có điểm tựa ấy. Nếu đã rơi thì hãy rơi đến tận cùng. Chính ở dưới đáy giếng là nơi Toru tìm ra đường hầm để đi vào một thế giới khác, thế giới bên trong của Kano Creta (Chim vặn dây cót). Đêm nay, trong cái tâm trạng cuồng loạn rất cần tìm đến Rock, tôi chỉ muốn qua khu Ratchada và ném mình vào một quán bar nào đó có nhạc sống chơi đến muộn và uống bia lạnh, bết xê lết được thì càng tốt. Anthony Kiedis đang hát đến bài Parallel Universe. Không cách gì hiểu được âm nhạc của Red Hot Chili Peppers trọn vẹn. Âm nhạc của họ có mọi thứ. Đại đa số các bài hát được Anthony Kiedis viết từ khi còn trẻ, nói về ma tuý, nghiện ngập, tình dục, phân biệt chủng tộc, và đặc biệt là cái chết vì Anthony đã chứng kiến những người bạn thân của mình lần lượt ra đi. Âm nhạc của Red Hot Chili Peppers đi rất gần với xã hội hippi thời đó, một thứ âm nhạc chán chường nhưng không u uất, tuyệt vọng.
Tôi bỗng nhớ đến cái đêm lang thang trong rừng ở Seinäjoki. Tháng mười hai, tuyết phủ lạnh lẽo, chúng tôi đi party về vào đêm thứ Bảy, khật khừ đến nỗi không còn nhớ rõ lối đi. Thay vì về nhà, tôi bỗng có cái ham muốn ngồi ở bìa rừng ở phía sau lưng khu tập thể. Lũ sóc đã đi ngủ cả. Con suối đã dần đóng băng. Từng hàng bạch dương khẳng khiu oằn mình trong bão tuyết. Tôi phong phanh ngồi đó, giữa cái lạnh âm, không còn nhớ rõ mình đã tỉnh hay thức, nghĩ về tuổi trẻ tự do vô định của mình. Thời đó tôi vẫn còn nghe Coldplay. Giọng của Chris Martin da diết, “You are… you are… you are… Home, where I wanted to go. Home, where I wanted to go…”. Tôi nằm trên tuyết, hơi thở đóng băng ngay trên không khí, nhắm mắt lại. Tôi đã may mắn không thiếp đi ngay tại bìa rừng để rồi trở thành một người tuyết khô khốc vào hôm sau, nhưng tôi cũng không nhớ đã về nhà như thế nào.
Tôi quyết định đi thẳng mãi, vượt qua những ngã tư không có bóng con người. Chỗ này đã cách nhà tôi khoảng hai cây số. Tôi sẽ đi bộ dọc hết con đường này để đến một nơi rộng rãi có thể nghỉ chân, hoặc cứ thế đi mãi. Tôi nhớ đến đoạn đi bộ giữa Naoko và Toru trong Rừng Nauy, một cuộc đi bộ lặng lẽ dài khủng khiếp dọc Tokyo, Naoko không nói gì cả. Họ đã đi bộ cùng nhau suốt những ngày cuối tuần của mùa hè năm ấy, trước sinh nhật tuổi hai mươi của nàng. Những vỉa hè đặc biệt nhỏ ở Bangkok, thảng hoặc đôi khi có những dãy cầu thang bắc ngang qua đường dành cho người đi bộ choáng hết cả làm tôi phải bước xuống lòng đường. Từng đoàn ô tô và xe phân khối lớn vùn vụt lao qua như ánh chớp. Phi nhanh đến mức tạo thành một gia tốc lạnh lẽo chỉ chực hút thẳng người ta vào trong nó. Màn đêm mang đến những cạm bẫy vô hình. Rất đột ngột, từ phía đằng sau của tôi vụt lên một cô gái; có lẽ từ ngã tư bên kia rẽ sang. Nàng bước song song với tôi, không hề do dự. Tôi đang chìm đắm trong âm nhạc của Red Hot Chili Peppers, nghe Anthony hát Road Trippin’ xa vắng; “It’s time to leave this town. It’s time to steal away, let’s go get lost anywhere in the USA…”. Đoạn riff từ chiếc guitar gãy đôi trong video của bài này mang đầy tính giục giã chạy trốn. Tôi và cô gái không quen cứ thế bước đi bên cạnh nhau. Tôi thấy không thoải mái, ngại thì đúng hơn, một cô gái xa lạ đi cạnh mình giữa đêm, thế mà nàng lại thản nhiên như không. Tôi đã cố tình đi chậm lại một bước, nàng cũng đi chậm lại, tôi đi nhanh hơn, nàng cũng đi nhanh hơn. Tôi chịu thua. Thôi được, thích đi cùng cũng được, đằng nào thì tôi cũng chỉ đang đi bộ thôi. Đèn vàng hắt xuống hai chiếc bóng của chúng tôi trải dài trên phố. Nhạc đang chuyển sang Easily. Calling calling for something in the air. Calling calling I know you must be there. Nàng không hề quay sang nhìn tôi. Tôi cũng gần như không liếc nhìn nàng. Chúng tôi là hai kẻ lữ hành lững thững nhất thế giới. Màn đêm dày đặc ở xung quanh. Khi đi sau nàng một chút, tôi để ý nàng mặc chiếc áo để lộ toàn bộ lưng trần. Hoàn toàn không mặc áo ngực. Tay nàng buông thõng. Nhìn theo đường cong phập phồng trước ngực thì có thể quả quyết phía sau lớp áo cực kỳ đáng phấn phởi. Tóc nàng ngắn sau tai một chút. Đó là tất cả những gì tôi biết sau một phần mười giây liếc vội sang bên. Có lẽ ở giữa màn đêm thẳm này thì một kẻ xa lạ là tôi còn an toàn hơn một gã vô gia cư nào đó, dù sau một cuộc rượu chuếnh choáng với bạn bè lúc nãy thì tôi trông cũng không khác một gã vô gia cư cho lắm. Nhưng nàng đã chọn tôi để đi cùng, những điều vô lý vẫn thỉnh thoảng xảy ra như thế. Tôi đang phân vân sẽ bắt đầu một cuộc hội thoại ngu ngốc như thế nào thì trước mặt tôi là một ngã tư nữa. Nàng không hề giảm tốc độ lại cho tôi biết là nàng sẽ tiếp tục đi tiếp. Chần chừ một lát, tôi quyết định đi lên trên cầu thang đi bộ. Chúng tôi chia tách nhau từ lúc đó. Đêm còn rất dài, tôi thực ra đang muốn ở một mình để tiêu tán đi nỗi buồn không tên được chuốc bởi whiskey và đá lạnh. Ở trên cầu thang nhìn xuống, tôi thấy nàng hơi khẽ liếc sang một chút rồi bước đi thẳng. Chiếc bóng của nàng biến mất rất nhanh ở cuối đường. Anthony bảo với tôi, “… I’m left alone in another zone” (This Velvet Glove). Tiếng guitar bass vang lên chát chúa kéo thốc tôi vào lãnh địa vô hình của nó.
Tôi rẽ ngang qua một ngõ nhỏ tăm tối, nơi sẽ dẫn tới một quảng trường rộng lớn nối liền bến tàu điện trên cao với những dãy nhà cao tầng. Ở dưới chân một khu tập thể cũ có hai con mèo đen đang uể oải ăn đêm. Tôi thử bắt chuyện với nó, rất ngạc nhiên một trong hai con chạy ngay lại. Lũ mèo hoang ở Bangkok thường chẳng mấy khi để ý đến con người. Tôi phải hết sức vất vả nịnh nọt thì mới có thể vuốt ve được chúng một lúc, thế nhưng nàng mèo đen này thì lại thân thiện đến sửng sốt. Tôi nhận ra là mình thèm chơi với mèo. Lũ mèo hoang ở Bangkok tinh ranh ma quái hơn lũ mèo hoang béo múp và đặc biệt thân thiện với người ở Kyoto nhiều. Mèo hoang du đãng ở Bangkok luôn luôn cảnh giác, dù đã nằm yên trong lòng người. Chúng có vẻ là giống mèo hơn cả. Tôi vuốt ve nó, đôi lúc nó đứng yên, đôi lúc chỉ trực lao đi, tôi nhận ra là lũ mèo hoang đặc biệt giống mình. Về cơ bản thì lũ mèo là loài thế nào cũng được. Bạn vuốt ve chúng cũng được, mà không để ý đến chúng cũng không sao. Lũ mèo không thực sự coi điều gì là quan trọng cả, chúng cũng không coi lũ người thực sự là người. Nhưng chúng vẫn là sinh vật cực kỳ đáng yêu. Tôi nhớ đến hai con mèo của tôi đang gửi ở nhà mẹ nuôi hộ. Chúng tôi đã xa nhau quá lâu rồi. Con mèo đen vẫn quấn quít dưới chân tôi, con còn lại chỉ hờ hững đứng từ xa nhìn. Một điều nên biết, mèo đen là loài đặc biệt tinh khôn trong giới nhà mèo! Chúng luôn bình tĩnh, điềm đạm, nhìn mọi vật với con mắt dò xét kín đáo. Vẻ đẹp của mèo đen là vẻ đẹp của con báo nhỏ đang kiên nhẫn rình mồi. Tôi đứng lên, vờ bước đi để xem nó có chạy theo tôi không. Nó chạy theo, bước đi cùng tôi một đoạn. Một con mèo đen hết sức thú vị, có lẽ đã lâu nó đã không gần con người. Tôi dừng lại, nó lại quấn lấy chân tôi, và như ngứa răng, cắn vào gấu quần tôi nghịch ngợm. Có thể nhận ra rất nhiều thứ từ việc cắn của một con mèo; về cơ bản thì lũ hung hăng này không thật lòng muốn cắn con người lắm, trừ khi hết sức tức tối. Nó cứ gặm lấy gấu quần của tôi, rồi đột ngột cắn một nhát vào mắt cá chân tôi đau điếng. Ôi cha, một miếng cắn thật sự là cắn. Miếng cắn dằn mặt thể hiện sự hả hê hết mức của nàng mèo đã lâu lắm không có sự quan tâm của con người. Nàng cắn rất ngọt. Tôi khập khiễng bước đi, nó vẫn theo tôi; tôi đã yên tâm là mình lại có kẻ đồng hành thì nàng đột ngột dừng lại rồi quay ngoắt. Lũ mèo là thế, ta không thực sự biết được đến lúc nào thì chúng nó không cần ta nữa. Màu đen của nó hoà lẫn rất nhanh vào màu đen của ngõ vắng rồi khuất hẳn. Nó biến mất nhưng cái đau từ vết cắn vẫn ở đây. Từ bé đến lớn, trên người tôi vô số vết sẹo từ mèo cắn. Đôi khi, những vết xước dài trên tay gợi lại cho ta những ký ức ngọt ngào.
Quảng trường rộng lớn nằm giữa một đại lộ bốn phía là nhà cao tầng. Đây là địa điểm mà ban ngày sẽ thu hút rất nhiều học sinh đến chụp ảnh kỷ yếu và từng nhóm bạn bè cosplay chụp ảnh tấp nập. Nghệ sĩ đường phố cũng thỉnh thoảng vác đàn ra hát ở đây, thứ âm nhạc trẻ thịnh hành dành cho thanh niên. Vậy mà đêm nay chỉ có mình tôi. Đứng giữa quảng trường đón gió, từng hàng xe vẫn chạy vùn vụt ở dưới đường, tôi như vẫn thấy hàng trăm linh hồn đang nháo nhác chung quanh. Một vẻ yên tĩnh mà vẫn vang vọng lại rất nhiều tiếng động. Tôi dựa lưng vào lan can, nhìn xuống đường. Ánh đèn từ hàng trăm chiếc xe dọi lại như những chùm lân tinh lập loè trước mặt. Một không khí cực kỳ cô liêu. Tôi thấy nỗi cực cảm của mình. Red Hot Chili Peppers chơi Purple Stain. Chad Smith như đang lên đồng. Đoạn solo trống dài như một bản trường ca trong bài này vô cùng lừng lẫy, đã làm tôi ngây ngất đến thắt ngực.
Nếu đi tiếp thì sẽ hoàn toàn lạc lối. Cơn buồn ngủ cũng đã dần xâm chiếm tôi rồi. Tôi chuếnh choáng bước xuống đường để quay trở về. Ma lực từ những ánh chớp xe cộ bên đường vẫn tiếp tục quyến dụ tôi, nhưng tôi đã đi sát lề trái để ngăn chặn cơn ham muốn lao mình qua đường bất chợt. Gió lộng lẫy ở trên cao. Tôi bước lên trạm BTS để có thể nhìn ngó thành phố trong phút chốc. Ba giờ sáng. Những tiếng lao xé gió của xe cộ phía dưới làm rách toạc màn đêm. Tôi đứng ở lan can, nhìn xe vùn vụt qua. Bỗng có ham muốn nhảy xuống mãnh liệt. Độ cao khoảng hai mươi mét vẫn dụ dỗ không ngừng. Trong đầu tôi luẩn quẩn những câu thơ của Vi Nhất Tiếu…
Chính là em
vầng dương nào vẫn đỏ
trên đỉnh sầu oan nghiệt của chia phôi
“trên đỉnh sầu oan nghiệt của chia phôi…”, tôi lẩm bẩm, như những dòng thần chú mặc niệm. Ký ức vụt qua lạnh lẽo. Chính ở lúc đó, tôi nhìn thấy một cô gái, cũng đứng ở phía bên kia lan can như mình.
Tôi không rõ nàng đã ở đó tự bao giờ vì lúc tôi lên đây thì chỉ có một mình. Chỉ biết là khi tôi ngẩng lên thì đã nhìn thấy nàng ở đó rồi. Giống như tôi, nàng nhìn chăm chăm xuống đường. Nàng mặc một chiếc váy ngắn tối màu, áo sơ mi thuỷ thủ, tóc dài thả trôi, bồng bềnh sương khói. Mặt nàng lộ liễu một ham muốn nhảy xuống còn rõ ràng hơn tôi. Tôi cứ đứng đó, kinh ngạc nhìn nàng. Ở khoảng cách này, nếu thực sự nàng muốn nhảy xuống thì chắc chắn tôi cũng không thể kịp chạy đến được. Tôi bỗng thấy như mình bị đặt vào tình thế là chứng nhân cho một kẻ sắp kết liễu cuộc đời mình, mà chỉ ít phút trước chính tôi cũng có khao khát đó. Nhưng tôi lại thấy mình không thể nói, cứ như thể giọng nói đã rời bỏ tôi rồi, họng tôi khô khốc. Tôi nhìn nàng, trong đầu vẫn không ngừng niệm chú. Xin đấy, đừng nhảy có được không! Tôi muốn nói như vậy, nhưng ngôn từ đã tan biến mất từ trước khi nó được thốt ra rồi.
Nàng quay sang phía tôi.
Mắt tôi nhìn thẳng vào mắt nàng, hoặc một cái gì đó giống như là mắt nàng; vì ở khoảng cách này cùng sự nhá nhem đồng loã của bóng tối, tôi không thực sự rõ đồng tử của nàng ở đâu nữa. Nàng đứng bất động ở đó, chằm chằm nhìn tôi. Nàng tuyệt đẹp. Một vẻ đẹp rực rỡ sẽ làm điêu đứng mọi ánh mắt nhìn. Tôi không thấy một cảm xúc nào trên gương mặt nàng cả, chỉ chăm chăm nhìn vào cái thằng tôi đang đờ đẫn ở trước mặt. Tôi muốn lắc đầu với nàng, ý muốn nói với nàng là đừng làm thế, nhưng một cử động nhỏ tôi cũng không làm được. Ánh nhìn của nàng lặng lẽ, xuyên thấu. Tôi bỗng hiểu ra, nàng không thực sự nhìn tôi, mà nhìn xuyên qua tôi. Ánh mắt của nàng không phải là ánh mắt của con người trên cõi đời này, dù vẻ đẹp của nàng vô cùng trần thế. Ánh mắt của nàng như thôi miên, dụ hoặc, dù không có một tia ấm áp trìu mến nào toả ra từ đôi mắt sâu thẳm của nàng cả. Nhưng cũng không có một sự đe doạ nào trong ánh mắt lạnh lẽo ấy.
Nàng khẽ lắc đầu, vai nàng run lên một chút, rồi quay người bỏ đi.
Một điểm lân tinh từ ánh mắt nàng thoát thai, bay lơ lửng trong không trung và lẽo đẽo theo nàng. Đốm sáng nhỏ le lói ở đằng sau gày guộc như một linh hồn nhỏ, khuất dần rồi mất hẳn. Tôi nhìn theo nàng khuất bóng ở phía xa, nhưng ở chỗ nàng đứng như vẫn còn một vầng hào quang mờ mịt vô hình ẩn hiện. Một vài lân tinh rơi rớt lại, thoi thóp trong không trung, tắt dần ánh sáng. Tôi giơ tay đỡ lấy một linh hồn đang lịm dần ở gần mình như một con đom đóm nhỏ. Nó cũng dần tắt lịm trên tay tôi, tan biến.
Không còn gì bên cạnh. Tôi nhìn xuống đường, cũng chẳng còn bóng dáng xe cộ nào. Chỉ còn sự thăm thẳm của màn đêm.
Tôi trở về nhà.
Căn phòng của tôi đã được dọn dẹp sạch sẽ, làm tôi bỡ ngỡ phút chốc, bởi tôi thấy như mình đang lạc vào một căn phòng khác. Mùi không khí xung quanh cũng là một mùi lạ lẫm, tươi mới. Không còn những dư hương ấm áp từ đêm hôm qua nữa, tôi nghi hoặc một lúc rồi thở dài, ném mình vào chăn gối. Đằng nào thì vẫn là căn phòng ấy, tôi không thể miễn cưỡng được cơn buồn ngủ nữa, nó đã quá sốt ruột chờ tôi rồi.
***
Sáng hôm sau, tôi ngủ dậy, mở cửa sổ để cho không khí tràn vào căn phòng. Ánh nắng chiếu qua rèm cửa rực rỡ.
Ở giữa phòng, một điểm lân tinh nhỏ lơ lửng trong không trung, toả ra thứ ánh sáng ấm áp nhiệm màu.
Điểm lân tinh từ từ hạ xuống thấp dần, rơi rớt thành hàng ngàn lân tinh nhỏ, rồi tan biến giữa hư không.
Tôi đã trải qua một giấc ngủ dài không mộng mị.
December 20, 2016 2 Comments
Niềm vui phục vụ

Thailand’s King Bhumibol Adulyadej (far right) plays the saxophone during a jam session with legendary jazz clarinetist Benny Goodman (far left) and his band in New York on July 5, 1960. The king is an accomplished musician as well as a composer. This year marks the world’s longest reigning monarch’s Golden Jubilee, and American jazz legends such as the Count Basie Orchestra, Herbie Hancock, and Wayne Shorter have recently come to town to perform in his honor. (AP Photo) – Source
Với tất cả sự tôn kính và yêu thương, tôi dành bài viết nhỏ này cho Thái Lan – đất nước mà tôi đã sống và làm việc một cách vui vẻ, nhiệt thành nhất trước tuổi 30
Trong cuốn du khảo Đà Lạt một thời hương xa của Nguyễn Vĩnh Nguyên, chương nói về Nhất Linh rất nhiều xúc động. Về sau, con trai của ông là Nguyễn Tường Thiết đã hồi tưởng về thời gian cha ông ở Đà Lạt và gọi nó là quãng thời gian đẹp nhất trong đời Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam. Khoảng thời gian mà Nhất Linh sống chạy trốn thực tại thất bại trên trường chính trị, lui về sống đời thoát tục và đắm chìm vào tình yêu cái đẹp – thú chơi lan.
Về sau, nếu cuộc đời đủ thú vị đến mức để cho tôi thư nhàn rảnh rỗi mà viết một cuốn hồi ký chẳng hạn, tôi cũng muốn nhớ đến những năm tháng 2016 sinh sống và làm việc tại Bangkok, Thái Lan như một quãng thời gian tươi đẹp trong tuổi trẻ của mình, trước tuổi 30.
Bangkok, Thái Lan.
Tôi muốn nói trung thực một điều rằng tôi biết ơn đất nước Thái Lan và con người Thái Lan. Quãng đường khởi nghiệp của tôi có lẽ sẽ không phát triển nhanh đến thế nếu tôi không có cơ hội được dấn thân vào thị trường Thái Lan và sinh sống, làm việc cùng họ.
Tôi may mắn được làm việc trong một Tổ hợp công nghệ giáo dục đầy tham vọng. Nếu chỉ hai năm trước thôi, Tổ hợp vẫn chỉ tập trung vào một thị trường duy nhất, thì hiện tại chúng tôi đã mạnh dạn cắm cờ tại thêm 3 quốc gia khác. Việc mở rộng sang Thái Lan là một trong những quyết định chiến lược đúng đắn nhất. Với bản thân tôi, điều này cho tôi cơ hội được đối diện với những thử thách lớn trên phương diện quản trị nhân sự và phục vụ khách hàng. Tôi đã có cơ hội học cách dùng nhân sự người nước ngoài, mà đối với startup vốn đề cao tính phù hợp văn hoá của nhân sự chứ không chỉ dùng người theo kiểu làm thuê sòng phẳng, thì bài toán này khó khăn hơn nhiều.
Gần hai năm phục vụ người Thái Lan, sinh sống và làm việc tại Bangkok, theo quan sát của cá nhân mình, điều tôi thấy cảm mến nhất về người Thái Lan đó là sự yêu đời và yêu nghề của họ.

Những người Thái Lan vui vẻ (nguồn ảnh: Google Images)
Tôi thấy người dân Thái Lan rất hạnh phúc và yêu đời. Để biết được một xã hội có hạnh phúc hay không, theo một cách ít hình thức nhất, hãy đơn giản là ra đường và quan sát, cảm nhận về tầng lớp nhân dân thấp nhất của xã hội.
Ở Thái Lan, kể cả những ông xe ôm, bán hoa quả dạo, bảo vệ, bán hàng dạo ngoài chợ… đều rất vui vẻ. Họ là tầng lớp vất vả của xã hội, nhưng tôi không thấy họ chán chường, mệt mỏi, bất mãn như tầng lớp tương tự tại Việt Nam. Trái lại, họ đều bình thản và nghiêm túc làm tốt nhất vai trò của mình.
Điều đặc biệt là, kể cả những người lái xe ôm hay bán dạo, họ đều luôn giữ thái độ đúng mực đối với khách hàng. Tôi thực sự cảm kích và biết ơn những người lái xe ôm đã đưa đón tôi đi tập gym hàng ngày. Trước khi lên xe, và sau khi xuống xe, bất kể có đi quãng đường xa hay ngắn đi nữa, họ đều gật gầu chào tôi một cách rất lê độ và khuôn phép, dù phần nhiều trong số họ là những người cao tuổi. Khi tôi trả tiền, họ luôn cúi đầu cảm ơn. Đến lần gặp thứ hai khi đón tôi (đã trở thành khách quen), cái cách họ đón tiếp tôi làm cho tôi cảm thấy thân thuộc và cảm mến một cách tự nhiên. Thái độ phục vụ của họ – những người xe ôm – cho tôi thấy một sự chuyên nghiệp đã được rèn luyện thành khuôn phép, chuẩn mực, mà không kiểu cách, và tôi cho rằng mọi thứ đều đến từ một cơ sở giản dị đó là tình yêu với nghề và sự hài lòng với cuộc sống.

Xe ôm tại Thái Lan đều mặc đồng phục và luôn thân thiện, niềm nở (ảnh: Google Images)
Tình yêu với nghề. Nghe thì xa xỉ nhỉ. Vì một cái nghề như xe ôm thì có gì đâu mà yêu. Tôi không nghĩ là có rất nhiều ông xe ôm yêu nghề, hạnh phúc với cuộc sống tại Việt Nam. Nhưng điều này là có tại Thái Lan.
Nghĩ sâu sa hơn, thực ra tầng lớp thấp của Thái Lan duy trì được một thái độ phục vụ niềm nở đối với công việc đó là vì đa số họ đều hài lòng với cuộc sống. Xa hơn chút nữa, là họ tôn trọng bản thân mình. Thử nghĩ mà xem, thường thì tầng lớp thấp của xã hội thường hay chứa đầy bất mãn. Tại sao tôi lại phải làm cái nghề này? Đáng ra tôi phải làm cái này cái kia. Người Thái Lan không có tư duy này. Nếu họ chọn một nghề dịch vụ nào đó, họ sẽ vui vẻ hạnh phúc với nó, và ý thức được vai trò của mình để nỗ lực làm tốt nhất. Tư duy dịch vụ của người Thái Lan rất cao, trong bất kỳ mảng dịch vụ nào, từ cao cấp đến thấp cấp. Một người xe ôm sẽ ý thức được vai trò của mình, hẳn nhiên không phải thành phần thừa của xã hội, ngược lại hệ thống giao thông công cộng cần họ, nên điều này tạo được thành động lực cho họ nỗ lực trong công việc của mình.
Chúng ta sẽ cố gắng làm tốt công việc của mình nếu chúng ta biết là nó quan trọng.
Ý thức hệ về tinh thần dịch vụ của người Thái Lan có lẽ đã lên đến đỉnh cao. Đó không phải là văn hoá dịch vụ kiểu cách như người Pháp, hay cầu kỳ như người Nhật – mà cả hai tôi đều thấy rất kitsch. Văn hoá dịch vụ của người Thái Lan ở mức vừa phải, không khiến bạn ngại và tạo sức ép ngược về cung cách lên khách hàng, mà có thiên hướng tạo sự thiện cảm, gần gũi, một thứ gì đó đến từ trái tim.
Ở người Thái, có một ý thức rất rõ đến từ niềm vui được phục vụ. Họ ý thức được việc vì sao mình làm công việc này và phải phục vụ khách hàng ra sao, bởi khách hàng chính là nguyên nhân khiến mình tồn tại. Vì vậy phải phục vụ họ theo một cách công bằng nhất.
Họ làm được điều này, phải chăng vì Thái Lan là một dân tộc có niềm tin?
***
*
Dân tộc có niềm tin.
Chúng ta phải biết được rằng vai trò của Nhà Vua trong đời sống nhân dân Thái Lan lớn đến mức nào. Một tượng đài thực thụ, một trụ cột tinh thần đúng nghĩa đã nâng đỡ và làm chỗ dựa cho mọi người dân Thái Lan, từ đứa bé mới sinh cho đến các cụ già.
Nhà Vua của Nhân dân luôn ở đó, trong trái tim của mọi người dân.
Ngoài vai trò tinh thần của Nhà Vua, hầu hết người dân Thái Lan đều theo Tôn giáo một cách nghiêm túc, vì vậy đời sống tâm linh của họ luôn luôn hướng thiện.
Vì luôn có Nhà Vua và Đức Phật ở trong tim, người dân Thái Lan luôn sống với một đức tin trong sáng, lành mạnh.
Chính niềm tin đó, theo tôi, là sức mạnh nâng đỡ cho cả dân tộc.
Điều mà, đáng buồn thay, người dân Việt Nam chúng ta không còn nữa, hoặc đang mất dần đi, không cách gì cứu nổi.
***
*
Yêu đời và yêu nghề.
Có lẽ là điều mà tôi học hỏi nhiều nhất từ người Thái.
Cuộc sống không phải lúc nào cũng bằng phẳng. Công việc hầu như chẳng tránh được sức ép bao giờ. Tuy vậy, khi sống ở Bangkok nửa năm nay, chứng kiến con người lạc quan và yêu đời, tinh thần của tôi dần đạt đến một trạng thái “thiền” nhất định; mà ở đó tôi đã học cách tận hưởng cuộc sống nhẹ nhàng và bao dung hơn. Nỗi buồn vẫn thế, mất mát là không đổi, con người vẫn tiếp tục làm tổn thương nhau… có điều lạ lùng là niềm tin của tôi về những điều hạnh phúc sẽ đến lại mạnh mẽ hơn bao giờ.
Trên khía cạnh công việc, tôi cảm thấy yêu thêm cái mình đang làm. Tôi đang có niềm vui được phục vụ người Thái Lan chăng?
***
*
Góc nhìn ở trên chỉ hạn hẹp xoay quanh tầng lớp con người làm dịch vụ, vốn là một điểm mạnh đối với đất nước Thái Lan. Sẽ có người hỏi tôi vậy những điểm yếu của đất nước Thái Lan là gì và họ có không?
Tất nhiên là có. Tuy nhiên quan điểm sống của tôi gần đây đó là hãy nhìn vào những điểm tích cực, thay vì tiêu cực. Chúng ta là một dân tộc còn phải đi học hỏi cái tốt từ người khác rất nhiều, vì chúng ta chẳng bằng ai cả trên thế giới.
Vì vậy cho phép tôi chỉ nói đến những điều tốt đẹp .
October 14, 2016 2 Comments
Cõi tôi
“tôi ngồi trong cõi tôi, riêng
bên trong ghế lạnh, ngoài hiên bóng, rời
phòng tôi trần thiết gương người
tường sơn kỷ niệm, vách bồi dáng xưa
tóc người chảy suốt cơn mưa
ngực thơm hoa bưởi, môi đưa bão, về…”
***
*
Thật kỳ lạ, khoảng thời gian này tôi thèm muốn được viết. Một cách vô định, tôi không biết đích xác mình muốn viết điều gì, chỉ là thèm muốn được trút hết ra những dòng chảy suy nghĩ đang ứa tràn. Có lẽ tôi đang đợi cái khoảnh khắc trời định tương tự đã biến Murakami trở thành nhà văn để phát tiết những cảm xúc, suy nghĩ của mình chăng? Không biết nữa, nhưng khối lượng câu chữ tôi viết ra trong vài tháng gần đây có lẽ nhiều hơn cả vài năm gộp lại. Chừng đó là đã đủ chưa? Probably not.
Trong Rừng Nauy, Murakami đã viết về Gatsby vĩ đại với một ấn tượng đặc biệt. “Không có một trang buồn tẻ nào trong cuốn sách ấy”.
Tuổi mườì tám, cuốn sách yêu thích nhất của tôi là cuốn Nhân mã của John Updike, nhưng sau khi đã đọc nó một số lần, nó bắt đầu mất dần ánh hào quang ban đầu và phải nhường ngôi trên ấy cho cuốn Gatsby vĩ đại. Gatsby ở ngôi ấy một thời dài sau đó. Tôi thường rút nó ra khỏi giá sách mỗi lúc hứng chí và đọc một đoạn bất kì. Chưa bao giờ nó làm tôi thất vọng. Không có một trang buồn tẻ nào trong cuốn sách ấy.
Thời gian này, tổng kết lại, tôi nhận ra bản thân mình cũng có những cuốn sách muốn để vào ngăn riêng như vậy. Những cuốn sách mà mỗi khi đọc lại, không có một trang nào chúng làm tôi mệt mỏi. Ôi những cuốn sách, đôi khi chúng vang vọng một cách tự nhiên, nhưng lại đánh vào tâm thức ta như những hồi chuông cảnh tỉnh, cứu vớt và giác ngộ cho ta trên chặng đường tìm về với mình.
Tôi để chúng vào ngăn riêng. Hay một cách trang trọng hơn, đặt chúng vào ngôi đền tâm thức của mình. Để mỗi khi cơ hồ mệt mỏi, lại lần giở vài trang sách quen, như một nghi lễ hoài niệm.
Nghi lễ.
Các nhân vật của Murakami có một điểm chung đó là họ luôn có một “nghi lễ” cho riêng mình. Nghi lễ của Tengo là viết. Nghi lễ của Shimamoto là lau đĩa than nhạc Jazz. Trong 1Q84, nghi lễ của Aoname là stretching – một liệu pháp giải phóng bản thân.
Nghi lễ của tôi, là nghiêm cẩn đứng trước ngôi đền của mình, lặng lẽ đọc đi đọc lại những dòng tư tưởng mà tôi đồng cảm tuyệt đối, bằng một tình cảm nâng niu, trân trọng. Đó phải chăng là con đường tìm đến sự thanh thản của tôi chăng?
Ngôi đền đó, chính là cõi tôi.
Trong ngôi đền của tôi, hiện tại có 2 tác giả và 3 cuốn sách.
Phía nam biên giới phía tây Mặt trời – Haruki Murakami
Tôi coi quyển tiểu thuyết này là một thứ “kinh thánh” dành riêng cho đàn ông. Ở độ tuổi 17 đọc Phía nam biên giới sẽ có một cảm nhận khác, ở độ tuổi 27, rồi 37 đọc Phía nam biên giới sẽ lại có một cảm nhận khác, và cái cảm nhận đó sẽ trùng khớp với cuộc đời của một người đàn ông như Hajime. Tôi đã chiêm nghiệm được điều này.

Phía nam Biên giới, phía tây Mặt trơi – Murakami
Tôi nói gì khi tôi nói về chạy bộ – Haruki Murakami
Riêng quyển này, tôi đã viết về nó nhiều lần, ở đây đây đây đây và đây. Chưa có quyển nào tác động đến hệ tư tưởng của tôi nhiều như quyển này, và tôi cũng đang nỗ lực sống một cuộc đời hàng ngày giống như Murakami vẫn sống – cuộc đời của tập luyện bền bỉ và cân bằng.

Tôi nói gì khi tôi nói về chạy bộ – Murakami
Đà Lạt một thời hương xa – Nguyễn Vĩnh Nguyên
Tôi đã viết về quyển sách này ở đây. Đây sẽ là quyển sách đưa tôi đến con đường nghiên cứu nghiêm túc về văn chương nghệ thuật Việt Nam giai đoạn cải cách, để từ đó tìm về nguồn cội của mình.

Đà Lạt, một thời hương xa – Nguyễn Vĩnh Nguyên
Ở mỗi giai đoạn của cuộc đời, hay khi già dần đi, lại có một cuốn sách, hay một hệ tư tưởng, tác động đến bản thân ta, giúp ta đạt đến trạng thái giác ngộ cao độ. Các cuốn sách này tuy khác nhau về hình thái, tác giả, thời đại, nội dung… thì có điểm chung đó là bằng cách này hay cách khác đều dẫn lối để tôi trở về gần hơn với bản chất của mình.
Chẳng phải hành trình trở về bản thân, là hành trình quan trọng nhất của con người đó sao?
111016
(*): đề tựa là bài Chân dung, thơ Du Tử Lê
October 11, 2016 Leave a comment
The third place, mine and Hanoian’s
Nơi chốn thứ 3, của tôi và của người Hà Nội.
Lần trước tôi có nhắc đến cuộc chiến cà phê (ít nhất là trên truyền thông) tại Việt Nam giữa Starbucks vs. Trung Nguyên, với câu hỏi đặt ra là liệu định vị “the third place” của Starbucks có giữ được khi đặt chân vào Việt Nam hay không?
Sau một thời gian khi Starbucks mở vài cửa hàng tại Hà Nội, và sau khi tự thuyết phục mình thử ngồi Starbucks xem sao, thì thấy Starbucks fail toàn tập tại Hà Nội, ít nhất là với tôi, và ít nhất là tính tới thời điểm hiện tại.
Tôi đã ngồi Starbucks tại đảo Jeju (Hàn Quốc), giữa thủ đô Seoul hay tại sân bay quốc tế Incheon; tôi cũng đã ngồi Starbucks của Bangkok Thái Lan. Tại 2 đất nước ấy, Starbucks tuy hiện đại, nổi bật nhưng vẫn gần gũi với tất cả mọi người, nôm na là ai cũng có thể với tới. Quán không phải là đông lắm, decor cũng tàm tạm, thực đơn thường thường, khách thì đủ mọi thành phần, ít thấy sự phân biệt về đối tượng thưởng thức. Người ta đến quán, có thể là vì ghé vội ăn trưa, hoặc tranh thủ ít phút suy nghĩ một mình trước khi vào cuộc họp.
Ba quán Starbucks ở Hà Nội, half-ass như nhau.
Cảm giác câu chuyện của Starbucks giống câu chuyện của KFC khi mới đến Việt Nam. Mình du học sinh về, độ 2008 2009 gì đấy, hỏi thằng bạn ở Hà Nội thì có quán ăn nào dẫn gái cần tán đến được. Nó trả lời KFC. Mình freak out luôn. KFC, yeah? Dẫn gái vào quán fast food á? Vì trong đầu mình lúc đấy KFC ngang quán phở ở nước ngoài thôi mà. Mình ko tin nên đi thử, hóa ra đúng thật, cảm giác vào KFC lúc đấy như vào Megastar sau này, vì toàn dân bảnh bao ngồi, tầng lớp thấp hơn chưa thấy.
Bây giờ thì KFC cũng phổ biến ngang quán phở thật.
Còn Starbucks, con đường để họ trở thành the third place tại Việt Nam, có lẽ còn xa lắm.
Nhất là khi, ở Hà Nội đã có một the third place của riêng mình.
Cộng, the third place
Cộng đã mở đâu đó hơn chục quán tại Hà Nội và một quán tại Đà Nẵng.
Quán Cộng đầu tiên tôi ngồi là tại Điện Biên Phủ, độ vài năm trước, khi Cộng vẫn là một cái gì đó nhỏ bé khiêm nhường đối với dân cà phê Hà Nội. Lúc đó vào Cộng, cảm giác không gian chật chội, cũ kỹ, tối tăm, có gì đó khó chịu. Chẳng thể ngờ là vài năm sau, vẫn cái không khí chật chội cũ kỹ đấy lại quyến rũ mình, và trở thành quen thuộc hàng ngày.
Đối với một quán cà phê, cái không khí của quán là quan trọng nhất. Giá trị trừu tượng này khó có thể giải thích bằng lời. Cái không khí tỏa ra từ dấu tích thời gian của ngôi nhà, bảng hiệu, nội thất, mùi con người, âm thanh pha chế, từ những câu chuyện theo chân thực khách, đến nhạc nền, phố vọng. Cái không khí tỏa ra từ lý do để người ta ghé qua, cảm thấy bị níu chân, nán lại và trở về.
Từ đam mê và ký ức xa xôi nào đó biết chừng.
Tôi đi uống cà phê phần nhiều vì ngồi với bạn bè. Trong cái không gian gần gũi của nhạc hay, chuyện phiếm và những gương mặt quen thuộc ấy, chất lượng cà phê không còn là điều cốt yếu nữa.
Khi muốn ngồi yên tĩnh một mình, tôi sẽ lánh vào một quán quen – nơi gắn với những kỉ niệm. Ở không gian đó, thiết kế nội thất và đồ uống có khi chẳng quan trọng bằng sự chào đón bằng ánh mắt của cô bé phục vụ dù đã gặp nhau suốt nhưng chẳng bao giờ hỏi tên, cũng chẳng bao giờ cần mở miệng order vì đã hiểu mình quá rõ.
Người ta uống cà phê nhiều khi chẳng phải vì cà phê mà là thích cái cảm giác ngồi bên một ly cà phê và cứ thế lười biếng với suy nghĩ của mình.
Bằng cách nào đó, Cộng tạo ra một không khí thoải mái chừng mực với tất cả mọi người. Cái cũ kĩ của Cộng không phải cái cũ kĩ của không khí bao cấp, mậu dịch mà một vài quán cố gắng tái hiện lại nhằm thu hút những người hoài cổ. Thật lòng mà nói tôi không ưa cái không khí mậu dịch đó lắm, vì có gì đó cổ hủ, ngược đời. Dòng chảy tự nhiên đã cuốn trôi những thứ cổ hủ đó đi rồi, đừng mang nó quay trở lại (theo cách nửa vời) nữa.
Cộng cũ kĩ một cách tự nhiên, không khuôn sáo. Tuy cũ kĩ nhưng vẫn phảng phất một phần phố thị, không bị già quá, cứng quá. Thiết kế và chủ ý sắp đặt của Cộng dường như đến từ cái gout cá nhân nhiều màu sắc hoài cổ của chủ quán, chỉ hơi lạ lẫm một chút chứ chưa đến mức cực đoan, bị biệt.
Lần đầu đến Cộng, va chạm với cái không khí là lạ từ theme màu xanh bộ đội ấy, người ta dễ có cảm giác lấn cấn gì đó trong lòng. Có cái gì gợi nhớ từ những trang sách sử, thời chiến, ẩn dụ chính trị, phảng phất tư tưởng gì đó ở nơi đây, rất khó giải thích. Cả không gian quán thấm đẫm một không khí cách mạng! Cái cảm giác đó làm người ta ngần ngại. Thậm chí, còn làm một số người ngứa mắt. Tôi nhớ trên truyền thông, Cộng nổi nhất là khi bị trang lá cải Petrotimes đánh. Cũng gọi là nổi đình nổi đám một thời gian ngắn, đủ để tạo awareness (tốt hay xấu?) về thương hiệu. Thời đó Cộng chưa có nhiều hơn dăm bảy quán, chưa phải là hiện tượng cà phê như bây giờ.
Sau đó thì không hiểu tại sao Cộng bỗng mở rộng mạnh mẽ ra nhiều địa điểm, đi đâu cũng thấy.
Tôi đã ngồi 10/14 quán Cộng tại Hà Nội. Vào mỗi buổi tối, Cộng đông nghẹt khách. Đông kinh hãi, khách ngồi full ghế trong nhà, chật ních vỉa hè ngoài phố. Cộng Quán Sứ là một ví dụ tiêu biểu. Cộng Nhà Thờ thì thôi khỏi nói.
Khi tôi nhìn thấy khách đến Cộng, từ những cựu chiến binh xanh màu áo lính, một mình bên điếu thuốc, chậm rãi nhả khói, thưởng thức từng giọt cà phê, ký ức chắc ngập tràn một thời bom đạn; đến những gia đình vợ chồng con cái đủ cả, rạng rỡ bên những câu chuyện buổi sáng; rồi các cặp bạn bè, tình nhân, thanh niên nam nữ tụ tập chuyện phiếm vỉa hè; Khi tôi nhìn thấy khách của Cộng, từ dân nghệ sĩ lập dị, đến dân celeb và người dân ngồi lẫn với nhau, oang oang hay khe khẽ những câu chuyện từ sáng tác, làm ăn buôn bán đến phang phập hàng ngày; người cưỡi xe máy hay đi Audi cũng không ngại đến; Khi tôi nhìn thấy chính tôi, nhiều ngày mệt nhoài rời công sở về nhà, váng vất thèm cà phê đến phát điên, theo quán tính tự vòng về Triệu Việt Vương (địa điểm Cộng gần công ty nhất) … tôi biết Cộng đã trở thành một phần của văn hóa cà phê Hà Nội. Đường hoàng và nghiễm nhiên bước lên vị trí the third place, cái mà dân thưởng thức nói chung của thủ đô đang thiếu.
Với sự hiện diện ở khắp nơi quanh thành phố như hiện nay, khi lang thang đâu đó trong cái lành lạnh của Hà Nội mùa đông, thèm suy nghĩ một mình, Cộng là lựa chọn đầu tiên và duy nhất. Khi mời bạn bè cũng vậy, mỗi người một nhu cầu, người thích sang chảnh, người thích bình dân, người lại ưa cá tính, thôi thì ra Cộng vậy, vì cái không khí cởi mở, gợi gợi của Cộng rất dễ chấp nhận và hòa mình vào đó. Khách vào Cộng tuy rất khác nhau, nhưng lại rất ít sự phân biệt. Mỗi người một góc, lost in thoughts, or in talks, ai cũng như ai.
Chất lượng cà phê?
Tôi uống cà phê vốn khó tính. Trước nay tôi chỉ cảm thấy hợp nhất với Năng. Vị giác của tôi có lẽ cũng không đến nỗi tệ, ấy thế mà tôi lại phải lòng thứ cà phê tại Cộng, phải lòng một cách bạo liệt. Cà phê Cộng đậm đặc mà không đắng gắt, không dậy mùi quá mức mà chỉ chừng mực, đủ thơm, pha đủ lượng sữa tối thiểu, uống trong cốc tráng men, nóng hổi, nuốt từng giọt, cảm nhận cái vị đậm đặc ấy chảy trong huyết quản, mà tinh thần sảng khoái. Hết một cốc đầu, nhìn sang bàn bên cạnh cốc nâu nóng tương tự đang phả khói, cảm giác ấm áp thèm thuồng bập đến, không cách gì ngăn nổi order một cốc thứ hai.
Với tôi, chất lượng cà phê Cộng là tuyệt hảo trong tầm giá.
Nếu bạn muốn tìm một thứ cà phê sang chảnh hơn mà vẫn có chiều sâu về chất lượng, thì có thể tìm thấy ở Runam Nhà Thờ. Tuy nhiên cái giá là không rẻ.
Trên phía cạnh marketing, khó có thể tìm thấy chuỗi cà phê nào sáng tạo mà vẫn consistent đến đỉnh điểm về cá tính thương hiệu như Cộng. Phải biết rằng Cộng hoạt động trên mô hình franchaise, hẳn phải có quy chuẩn nhất định khi nhượng quyền, nhưng với từng ấy quán, từng ấy khác biệt về địa điểm, môi trường và cấu trúc không gian, cả về cái tôi của người chủ quán – cái không khí “rất Cộng” ở mỗi quán gần như không đổi. The third place là đấy chứ là đâu.
Hồi xưa tôi chỉ tìm thấy cái cảm giác the third place ở Năng Hàng Bạc. Sau này khi quán ở Hàng Bạc dẹp đi, rất lâu sau đó tôi mới tìm lại được, tuy không còn nguyên vẹn, cảm giác tương tự ở Năng Triệu Việt Vương, vì những quán Năng khác dựng lên dễ dãi quá chừng.
Còn với Cộng, không khí nhất quán và cảm giác the third place hiện diện tại từng địa điểm. Bước vào đâu cũng một không khí cũ kĩ thân thuộc như nhau.
Đối với marketing, Cộng làm tốt từ trong nội tại của sản phẩm. Với những thương hiệu, vô tình hay chủ ý, làm tốt marketing từ bên trong, phát triển là điều không cần bàn cãi, và chẳng cần tìm hiểu lý do.
Marketing, đơn giản vậy thôi.
PS. Nếu ai hỏi quán Cộng tôi thích nhất, thì đó là ở Nguyễn Hữu Huân. Ngoài việc nằm ở con phố thủ phủ của cà phê Hà Nội, nơi có không khí cà phê nhất, Cộng Nguyễn Hữu Huân mang lại cảm giác ấm áp gần gũi vô cùng trong những ngày Đông lạnh.
Tất cả ảnh đều có nguồn từ Fan page của Cộng Cà Phê.
March 7, 2015 3 Comments
Customer Journey
For no reason, am writin’ this post with “Loving you” – Marcela Mangabeira as the theme music. May you relax your brain a little bit by listening to it while reading these humble boring text?
Entry là phần mở rộng của một entry cũ tôi từng post, và của status hôm trước.
Ai làm marketing cũng biết đến mô hình AIDA:

AIDA concept
AIDA được coi là một trong những khái niệm marketing cổ xưa nhất, xuất hiện lần đầu từ những năm cuối của thế kỷ 19 (hoặc những năm đầu của thế kỷ 20). Vào cái thủa sơ khai của nhận thức ấy, marketing và sale gần như là một. Mô hình AIDA có lẽ được khái quát hóa chủ yếu để giúp cho dân sale đi bán hàng dễ dàng hơn.
Nguyên lý của sale đó là bán được đúng hàng cho người cần mua (find products for your customers – Seth Godin), bên cạnh đó còn phải bán được cho càng nhiều người càng tốt. Thời cổ đại, cách bán hàng tầm thường và chân phương nhất vẫn là bán hàng trực tiếp (face to face, như cách đã cứu sống Jell-O). Vì vậy để tăng tỷ lệ bán hàng thành công và sale volume, đồng nghĩa với việc giảm đi số người gặp nhầm, phải có một phương thức nào đó để phân loại đối tượng theo thứ tự ưu tiên tiếp cận, từ đó đầu tư nhiều thời gian vào đối tượng dễ có khả năng bán hàng hơn.
AIDA ra đời vì lẽ đó.
Nguyên lý cùa AIDA đó là phân chia người tiêu dùng thành 4 nhóm với mức độ khác nhau về nhận thức/cảm xúc đối với một thương hiệu/sản phẩm, từ đó có chiến lược bán hàng riêng cho từng nhóm người để đạt được kết quả cao nhất.

AIDA concept
Rõ ràng là để bán hàng cho người chưa có nhận thức về thương hiệu thì cần cách educate khác với nhóm đã yêu thích thương hiệu rồi. Thông điệp khác, salekit khác, mà cả hoàn cảnh tiếp cận cũng khác. Trong nhiều trường hợp tôi thấy, để quyến rũ một desired customer, marketer sẽ tập trung vào emotional attribute của sản phẩm hơn là giải thích tính năng (functional attribute). Dùng sản phẩm của The Body Shop tức là bạn đang ủng hộ những điều mà họ cho là đúng (chống lại “thương mại tự do”, chống bạo hành trong gia đình, chống bóc lột lao động trẻ em, chống thử nghiệm mỹ phẩm trên động vật” etc). Ngược lại, với những ai chưa có “awareness” về The Body Shop, trước hết bạn phải giới thiệu cho họ là mình bán dưỡng phẩm đã.
Nhìn vào mô hình AIDA, chúng ta có thể thấy việc bán hàng được chia làm 4 giai đoạn, đi từ gây chú ý, tán tỉnh đến khơi gợi nhu cầu và kích thích hành vi mua sắm. Đó là nghệ thuật của quảng cáo và dẫn dụ! Đối với Elmo Lewis, một quảng cáo (advertisement) chỉ có thể coi là thành công nếu:
The mission of an advertisement is to:
- Attract a reader, so that he will look at the advertisement and start to read it
- Then to interest him, so that he will continue to read it
- Then to convince him, so that when he has read it he will believe it.
If an advertisement contains these three qualities of success, it is a successful advertisement.
Huyền thoại quảng cáo David Ogilvy cũng có quan điểm tương đồng:
Who created AIDA?
Wikipedia và cả phần đông chúng ta đều cho rằng Elias St. Elmo Lewis là người phổ biến mô hình AIDA. Tuy nhiên, thực tế có vẻ không phải như vậy.
Trong một bài post trên website của mình, Ric Dragon – tác giả của quyển sách nổi tiếng về marketing, Social Marketology – tôi highly recommend, đã lật lại vấn đề và dường như tìm ra người đầu tiên thực thụ định hình khái niệm tiền thân của AIDA hiện nay, đó là Frank Hutchinson Dukesmith.
Frank Hutchinson Dukesmith has pretty much been forgotten by history, and yet, it appears he was the author of one of the most enduring concepts, still taught today in business schools around the world. He was certainly the first to publish the concept, while St. Elmo Lewis’ claim is second-hand, and came 20 years after Dukesmith published. You might wonder why anyone should care – yet if simple errors like this can become re-cited thousands of times over, it emphasizes the notion that writers have an obligation to recheck facts, and find original source material whenever possible.
Đây là phiên bản đầu tiên của mô hình AIDA bởi Dukesmith:

Attention. Interest. Desire. Conviction. A diagram showing that every sale is offset by attention, interest, desire, and conviction. From Frank Hutchinson Dukesmith, editor of 1904 Salesmanship – See more at: http://www.dragonsearchmarketing.com/who-created-aida/#sthash.RPoxatHp.dpuf
Lịch sử có thể đã quá xa, tuy nhiên một khái niệm marketing thuộc dạng nổi tiếng và được ứng dụng rộng rãi nhất cho đến tận ngày nay mà tác giả của nó dường như bị quên lãng, cũng là điều đáng tiếc. Rất may là có những người như Ric Dragon đã bỏ công tìm kiếm.
Sự nhầm lẫn này làm tôi nhớ đến lỗi typo của rau chân vịt Popeye.
AIDA chưa hoàn thiện?
Tuy AIDA là mô hình rất tổng quát, làm đơn giản hóa việc tư duy, ứng dụng của nó đã vươn xa ngoài ngành marketing và trở nên rộng rãi trong cuộc sống, nhưng tôi luôn cảm thấy có điều gì đó chưa đủ.
Được trực quan hóa bằng hình ảnh của chiếc phễu (funnel), AIDA ám chỉ hai điều:
1) Sự mất mát dần của công chúng mục tiêu khi đi dần về cuối phễu (số người mua hàng sẽ chỉ là một phần nhỏ của số người biết đến bạn).
2) Mục đích cuối cùng là bán hàng (hoặc tương tự thế).
Chiếc phễu hướng tôi nghĩ đến hành trình một chiều của cá nhân đi-dần-vào-deadend trong mối quan hệ giữa người mua hàng và thương hiệu/sản phẩm. Mối quan hệ chấm dứt khi close the sale. Hết.
AIDA là một concept tuy hay nhưng rất bế tắc.
Thật ra điều này khá dễ hiểu. Ở thời của Dukesmith, marketing chưa phải khoác lên người nhiều chiếc áo như bây giờ. Again, marketing is everything. Lúc đó các marketers, hay advertiser or salesmen, chỉ lo làm sao bán được hàng chứ chưa nghĩ nhiều đến việc after-sale (xây dựng mối quan hệ, phát tán thương hiệu, tạo tribes…).
Lúc đó chưa có những visionary như David Packard:

“Marketing is too important to be left to the marketing department”, David Packard
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của Internet, là thời đại của Marketing 3.0 – nơi mà ở đó mối quan hệ giữa khách hàng và thương hiệu dựa trên việc liên tục tạo ra giá trị cho nhau, thay vì đi dần vào deadend.
Là thời đại mà việc mua hàng chỉ là khởi đầu của mối quan hệ, chứ không phải điểm kết thúc.
Việc mua hàng chỉ là một trong những trải nghiệm thương hiệu, và nhiều khi không phải trải nghiệm chính.
Thời đại marketing 3.0, khách hàng có quyền lực tuyệt đối. Bất cứ một cộng đồng nào đều là một kênh truyền thông. Thâm chí mỗi cá nhân cũng là một kênh truyền thông, Twitter đã chứng minh điều này. Ảnh hưởng của một cá nhân lên cộng đồng có thể dễ dàng gây tác động lên thương hiệu, tốt hay xấu.
Thời đại của connected consumer.
Bạn không tin điều này? Welcome to power of Persuasion. Where a single tweet can make or break a company.
Giá trị của khách hàng không chỉ được đo bằng số tiền họ bỏ ra để mua hàng một lần, hay thậm chí trọn đời (customer lifetime value). Giá trị lớn nhất của khách hàng đó là trở thành advocacy của thương hiệu và biến những người trong mạng lưới của họ cũng trở thành các advocacy.
Tất nhiên, để làm được điều đó, mối quan hệ giữa khách hàng vs. thương hiệu phải dựa trên shared values.
Bản chất của mối quan hệ đã thay đổi và phức tạp lên rất nhiều nên đã vượt quá khả năng thể hiện của mô hình AIDA.
Chúng ta cần một cách miêu tả khác.
Brian Solis và mô hình Customer Journey
Cũng có nhiều marketers nhìn thấy sự chưa hoàn thiện của mô hình AIDA và cố gắng cải tiến nó. Ví dụ như mô hình AIDAS, REAN etc. Tuy nhiên tôi chưa thấy thuyết phục lắm, bởi về bản chất thì các sự cải tiến đó đều chưa đi ra khỏi được phạm vi của concept “funnel” – hình ảnh thể hiện hành trình một chiều của cá nhân đi-dần-vào-deadend – nó thiếu đi tính “advocate” của cá nhân lên cộng đồng và thương hiệu để kéo dài giá trị của mối quan hệ.
Cho đến khi MCKinsey đưa ra ý tưởng về “consumer journey“, và Marketing God Brian Solis visualize bằng mô hình dưới đây thì tôi hoàn toàn bị chinh phục, và thỏa mãn.
Funnel -> Journey.
Cách redefine tinh tế.
Sau hơn 100 năm, cuối cùng thì cũng có một mô hình cải tiến thực thụ cho AIDA.
Consumer Journey và Marketing Funnel khác biệt cơ bản ở chỗ Consumer Journey không có điểm cuối mà là một vòng lặp, hoặc vòng xoáy (cycle).
Consumer Journey giải thích rõ hơn về mối quan hệ của người dùng với thương hiệu, nhất là giai đoạn sau bán hàng. Khi đã là “journey“, hành trình của một người dùng không đến dần với deadend mà liên tục inspire cộng đồng để mang lại giá trị cho thương hiệu và enrich mối quan hệ.
Trái tim của Customer Journey nằm ở Influence Loop. Khi đã trở thành advocacy, giá trị của khách hàng là vô hạn vì họ sẽ liên tục tăng viral cho thương hiệu.
Và đó là cái share valued cao nhất của mối quan hệ “thăng hoa” giữa người dùng và thương hiệu.
Shared Values = Lợi ích thương hiệu mang lại + Customer Lifetime Value + Customer Network Lifetime Value
Hãy biến mỗi khách hàng thành một advocacy của mình.
Đó là vai trò của marketing hiện đại.
—
Mô hình Customer Journey giúp cho marketer làm strategic planning dễ dàng hơn, bởi bản thân Customer Journey chính là chiến lược.
PS. Có những kiến thức cơ bản cứ ngỡ đã hiểu sâu, vào một lúc vô tình nào đó tự dưng chạm đến sự giác ngộ cao hơn, hoặc thay đổi hẳn cách nhìn… những zero moment of truth đó luôn khiến mình sướng phát điên lên được.
December 30, 2013 3 Comments
Low cost doesn’t mean cheap!
Post này đáng lẽ phải viết cách đây 3 tháng, thời điểm khi Apple giới thiệu với thế giới 2 chiếc điện thoại mới trong năm nay, iPhone 5S và iPhone 5C; nhất là khi đó tôi có một vài cuộc tranh luận aka phỉ báng nhẹ với vài bạn cứ hễ Apple ra mắt cái gì mới là cũng đều sến súa chê bai ngay được. Mà chê cái đéo gì không chê, lại chê về thiết kế. Một vài bạn khá hơn thì chê về giá. Thật chẳng biết các bạn muốn cái gì nữa hehe.
Tôi dằn lòng đợi cho đến khi cái lao xao của dư luận dần lắng xuống, trong khi đó theo dõi tình hình của Apple, và cũng để mình có thời gian lý tính hơn những suy nghĩ cảm tính trước đó rồi mới ngồi viết post này.
Vì dù sao đi nữa Apple luôn mang lại một cảm giác bất lực và băn khoăn cho bất kỳ tay viết nào.
***
Trong cùng một ngày, like never before, Apple giới thiệu 2 chiếc điện thoại. iPhone 5S & iPhone 5C.
As usual, Apple “wow” me.
Vì một lý do đơn giản, Apple đang chạm tay một lần nữa vào lịch sử.
Lịch sử huy hoàng của chiếc iPod
Hãy cùng đọc lại chặng đường phát triển của dòng sản phẩm nổi tiếng nhất của Apple, iPod: http://www.apple.com/pr/products/ipodhistory
Vị Vua quyền lực này chỉ chịu nhường ngôi khi kiệt tác công nghệ kế tiếp ra đời, khiến vương quốc của Apple tiếp tục phát triển màu mỡ. iPhone.
2001 – 2013. 13 năm, kể từ chiếc iPod đầu tiên cho đến phiên bản thứ 5 của chiếc iPod Touch hiện nay, Apple (hay Steve Jobs) đã định nghĩa lại cách chúng ta nghe nhạc và vĩnh viễn cấy vào AND của dòng máy nghe nhạc huyền thoại iPod những mỹ từ trang trọng và sôi nổi nhất. Apple = Cool, Lifestyle, Convenient…
“The iPod became a fashion accessory and a must have. It almost was as if you did not own an iPod you were considered not cool”
… thành công đến nỗi những mỹ từ này cũng đi vào ADN chung của thương hiệu Apple sau này.

iPod first gen
Product tree cho thấy tính đến ngày hôm nay, họ sản phẩm iPod có tất cả 5 thành viên. iPod Classic. iPod Mini. iPod Nano. iPod Shuffle. và iPod Touch, với tổng sản lượng bán ra toàn thế giới tính đến tháng 9/2012 là 350 triệu thiết bị. Con số không tưởng. Một chiếc máy nghe nhạc có quyền lực tuyệt đối.
Không khó để nhận ra để duy trì sự phát triển liên tục như vậy, một trong những chiến lược Apple dựa vào đó là mở rộng dòng sản phẩm (product line extension).
Chiếc iPod đầu tiên ra đời năm 2001 và phải trải qua 4 thế hệ iPod Classic, tức là vào năm 2004, iPod line mới là iPod mini và iPod Photo mới xuất hiện. Một năm sau đó (2005) khi iPod Classic đã ở thế hệ thứ 5, iPod Mini ở thế hệ thứ 2, chúng ta tiếp tục được biết đến dòng sản phẩm iPod Nano và iPod Shuffle. Phải 2 năm tiếp theo (2007), thế hệ iPod tốt nhất mới ra đời, iPod Touch.
Trong cùng năm, Steve Jobs giới thiệu chiếc iPhone thế hệ đầu tiên.
Kể từ đó cho đến cuối đời , Steve Jobs đã tiếp tục kể những câu chuyện thần tiên của mình. Đúng như mong muốn của ông, “I am going to be the next storyteller“.
iPod Touch 1G, 2G, 3G, 4G And 5G Commercials (HD)
Vì sao Apple liên tục mở rộng dòng sản phẩm như vậy?
Một lý do duy nhất, khiến iPod được sử dụng bởi càng nhiều người càng tốt. Nói rõ hơn một chút theo ngôn ngữ marketing thì khiến sản phẩm được sử dụng bởi càng nhiều phân khúc khách hàng càng tốt.
Tuy nhiên, thông thường thì một sản phẩm chỉ hướng đến một phân khúc khách hàng nhất định (kể cả có mass đến đâu). Vậy làm sao để khiến khân phúc khách hàng khác cũng sử dụng sản phẩm của mình, nhất là khi sản phẩm đó đã reach đến gần giới hạn của market size?
Thay đổi, hay nói đúng hơn, tiến hóa sản phẩm.
Để phù hợp với insight của phân khúc khách hàng mới.
13 năm phát triển, Apple đã có ít nhất 4 lần tiến hóa chiếc iPod của mình. iPod Classic. iPod Mini + iPod Nano + iPod Shuffle + iPod Touch.
Có thể thấy brand architecture của Apple tương đối phức tạp. Về mặt tổng quan, Apple đi theo mô hình branded house, tức là tập trung xây dựng company brand thật mạnh và tất cả sản phẩm và dịch vụ mới đều phải phản ánh brand equity. Theo đó, mỗi một product category mới ra đời, iPod -> iPhone -> iPad, được gọi là brand extension.
Trong mỗi sub-category này lại liên tục mở rộng – iPod Classic -> iPod Mini -> iPod Touch – tức là thực hiện product line extension. Tuy nhiên bản thân mỗi sub-category của Apple đều được marketing và xây dựng thương hiệu chu đáo để trở thành icon trong tâm trí người tiêu dùng, nên chúng đều trở thành sub-brand. Brand recognition của iPod hay iPhone có lẽ không thua kém của Apple là bao (thậm chí là vượt!!).
Vì vậy khi tiến hóa họ sản phẩm iPod, Apple không chỉ đơn giản là nâng cấp sản phẩm (line extension) mà còn mở rộng tầm ảnh hưởng cho sub-brand của mình, aka brand extension, từ đó mới có thể reach đến phân khúc khách hàng mới.
Brand architecture của Apple tuy dựa trên Branded House nhưng có sự kết hợp khôn khéo của cấu trúc House of Brands, khiến cho mỗi dòng sản phẩm con đều có giá trị thương hiệu riêng, và như một chiếc phản lực, leverage thương hiệu mẹ Apple.
Không phải tự nhiên mà Apple là công ty có giá trị thương hiệu lớn nhất thế giới.
Hơn cả màu sắc và thiết kế
Trở lại với vấn đề phân khúc khách hàng; còn nhớ những năm đầu của 20s, với mức giá $399 còn khá cao so với điều kiện kinh tế của người tiêu dùng phổ thông, việc sở hữu một chiếc iPod là thứ gì đó cool cool lắm lắm. Hình ảnh chiếc tai nghe dây trắng và thiết bị nghe nhạc màu bạc được thiết kế tối giản mãi mãi là biểu tượng của thời thượng.
Sự tiến hóa của họ máy iPod đầu tiên là ở giá bán:
- Giá bán các sản phẩm iPod khi xuất hiện lần đầu và tại thời điểm hiện tại (2013)
Chi tiết về lịch sử giá bán iPod, xem tại đây.
Có thể thấy từ chiếc Classic đầu tiên với một màu duy nhất cho đến chiếc iPod Touch 5 màu bóng bảy hiện nay, thiết kế của các đời iPod đã thay đổi khá nhiều.

Các dòng máy iPod
Các dòng máu sau này của iPod đã có sự biến đổi nhất định về kiểu dáng thiết kế, một vài dòng còn đi với vỏ nhiều màu sắc, i.e. iPod nano.
Điều này không phải ngẫu nhiên.
Với các sản phẩm của Apple, có 3 đặc điểm chúng ta cần chú ý: 1/Giá, 2/Thiết kế và 3/Màu sắc.
3 đặc điểm này luôn được kết hợp khác nhau một cách có chủ ý đối với mỗi phân khúc khách hàng khác nhau.
Sau vẻn vẹn 3 năm, iPod Classic nhanh chóng thay đổi ngành công nghiệp âm nhạc của thế giới. Vào thời điểm này, 90% market size của phân khúc khách hàng hiện tại đã về tay Apple. Để tiếp tục scale, Apple hiểu rằng conquer 10% còn lại; trong điều kiện brand loyalty của người dùng vô cùng cao, là vô nghĩa, nên buộc phải tấn công phân khúc khách hàng tiếp theo.
Và tất nhiên, khôn ngoan nhất là thực hiện downmarket.
Đó là lí do iPod Mini ra đời vào nằm 2004. Giá bán $249. Dung lượng bộ nhớ 4GB. 5 màu vs. iPod Classic (2004) $299 (20GB) và $399 (40GB).
Đây là lần downmarket đầu tiên của Apple (kể từ iPod).
***
Tại sao không đơn giản chỉ là giảm giá chiếc iPod Classic xuống để thu hút khách hàng mới?
Không đơn giản như vậy, thậm chí Steve Jobs đã từng phải xin lỗi người dùng vì giảm giá iPhone. Người dùng Apple luôn có một sự kiêu hãnh rất riêng vì sở hữu sản phẩm đỉnh, bất cứ một sự phỉ báng giá trị sản phẩm nào đều không được chấp nhận.
Vì giảm giá, là cách nhanh nhất để kết liễu giá trị thương hiệu.
Muốn tấn công segment mới, phải có một sản phẩm mới match với insight của segment này.
Segment mới là những người chưa thể với tới chiếc iPod Classic do giá cao và cảm thấy nhàm chán với tư duy thiết kế cứng nhắc sau 3 năm không đổi của chiếc iPod này.
Insight của segment này khác cả về demographic và psychographic.
Sản phẩm mới, phải đủ khác biệt với sản phẩm cũ; cả về giá – thiết kế – tính năng; để các phân khúc khách hàng nhận ra và phân biệt được giữa họ, từ đó tránh cannibalization.
Tuy vậy, sản phẩm mới vẫn phải đi theo tư duy thiết kế cốt lõi mà Apple, hay Steve Jobs, theo đuổi đó là tính đơn giản (simplicity).
iPod Mini 5 màu là dành cho họ.
Chỉ là sự màu mè hơn của cái vỏ ngoài, nhưng là bước tiến dài về nghiên cứu người dùng của Apple. iPod Mini tuy giá rẻ hơn nhưng linh kiện sản xuất phần cứng không hề rẻ tiền hơn người anh em của nó, ngoài ra tư duy thiết kế simplicity vẫn được thể hiện toàn diện.
Trong cùng một năm (2004), Apple một mặt cải tiến dòng iPod Classic 4th gen để reinforce định vị thời thượng nhằm giữ người dùng cũ, trong khi ra mắt dòng sản phẩm downmarket (brand extension) iPod Mini 1st gen để thu hút người dùng mới.

iPod Mini
Đây là một sự downmarket tài tình, chứng minh bằng revenue và sale volumes.
Chỉ một năm sau (2005), iPod Nano ra đời, với cùng sứ mệnh như người anh em iPod Mini. Và một lần nữa, boost sale của Apple toàn diện. Thậm chí còn hoành tráng hơn cách mà iPod Mini đã làm. Majestic.
Những câu chuyện sau này của iPod Shuffle và iPod Touch, chỉ là phần nối dài của chiến lược mở rộng sản phẩm đã được định hướng quá tốt và làm đến nhuần nhuyễn của Apple.
Sau 13 năm, có lẽ iPod đã làm tròn sứ mệnh của nó, đó là phủ kín các phân khúc khách hàng.
Lặp lại lịch sử. Một lần nữa
Vào đầu tháng 9 vừa qua, Apple giới thiệu cùng lúc 2 chiếc điện thoại mới: iPhone 5S và iPhone 5C.

iPhone 5s vs. iPhone 5C
iPhone 5S khiến tôi wow. Tuy nhiên không cần nói nhiều về chiếc iPhone khủng nhất từ trước đến nay này vì một lẽ đơn giản, đương nhiên là nó sẽ thế. Chu kỳ cải tiến sản phẩm mỗi năm một lần đã thành thông lệ, Apple làm gì với hàng tỷ dollar tiền mặt thừa thãi của mình suốt một năm, bên cạnh việc trả cổ tức cho cổ đông, nếu không mang đến một phiên bản iPhone tốt hơn?
Ngược lại, tôi cảm thấy thích thú hơn với sự xuất hiện của iPhone 5C.
Một chiếc iPhone giữ nguyên thiết kế của iPhone 5, với 5 chiếc vỏ màu mè.
Ngay lập tức nó làm tôi nhớ đến câu chuyện của chiếc iPod kể trên.
Và tôi đã dám khẳng định đây là một sản phẩm downmarket.
Hãy thử nhìn vào bảng thống kê sales của iPhone từ 2007 đến nay theo wikipedia:
Ta có thể thấy tăng trưởng sales của Apple vẫn khá đều đặn, liên tục phá đổ các kỷ lục và đạt đỉnh 47,80 triệu chiếc iPhone bán ra vào Q1/2013, chủ yếu đến từ hiệu ứng của chiếc iPhone 5. Điều này là dễ hiểu vì cơn khát sản phẩm mới của Apple fans đã được giải tỏa sau 2 năm iPhone 4 & 4s chung thiết kế.
Tuy nhiên, nghiên cứu của Gartner lại chỉ ra ràng dù sale volume rất lớn, market share về smartphone của Apple lại đang có dấu hiệu giảm đi (2003 vs. 2012) và còn khá thấp so với Samsung, 12.1% vs. 32.1%.

Worldwide Smartphone Sales
Trong bối cảnh thị trường smartphone đang có sự cạnh tranh vô cùng khốc liệt, cuộc chơi đã khác, Apple hiểu rằng ngôi vương iPhone của mình sẽ không mãi độc tôn nếu gìn giữ tư duy bảo thủ. Muốn tốn tại trong các năm tới thì phải giải quyết đồng thời 2 bài toán: 1/Giữ khách hàng và 2/Chiếm khách hàng từ đối thủ.
Là thương hiệu có tỷ lệ brand loyalty tự nhiên cao thứ 2 thế giới (source: BusinessInsider), điều 1/ với Apple không khó. Chỉ cần đều đặn upgrade sản phẩm là được.
Nhưng điều 2/ thì khó.
Sau từng ấy năm, thị trường smartphone đã phân hóa về mặt thương hiệu tương đối rõ ràng đến nỗi chia thành 2 phe đó là Apple fans và phần còn lại của thế giới (Samsung, Nokia, BB, Google, Microsoft..).
Người dùng của mỗi phe đã mature về văn hóa để rất khó chấp nhận nhau, đừng nói là thay đổi chúng.
Để conquer được khách hàng từ đối thủ, Apple bắt buộc phải tạo ra một sản phẩm đánh vào phân khúc mới và gần gũi với insight của phân khúc này.
Phân khúc nào? Upscale hay downmarket?
Dù đã trở thành chiếc smartphone phổ biến nhất, đồng nghĩa với việc cảm giác sở hữu một chiếc iPhone không còn “độc” và “cao cấp” như cách đây 7 năm, nhưng định vị là chiếc điện thoại đẳng cấp chưa bao giờ thay đổi trong tâm trí người tiêu dùng. Vì lẽ đó, hướng đến một dòng sản phẩm cao cấp hơn iPhone hiện nay (upscale), tức là sân chơi của những Vertu, Bellperre… có lẽ là không cần thiết. Giá của một chiếc iPhone có thể rẻ hơn nhiều lần nhưng perceived quality chưa bao giờ thua kém một luxury phone.
Vậy thì chỉ còn lựa chọn downmarket.
Và chiến thuật với chiếc iPod đã được sử dụng lại.
Với sự ra đời của iPhone 5C, hiểu theo thông thường là product line extension, nhưng thực chất đây là lần đầu tiên Apple thực hiện brand extension cho sub-brand quan trọng nhất của mình hiện nay, iPhone.
Chỉ đơn giản là khác biệt 1 chữ cái trong tên gọi, nhưng triết lý sản phẩm đã được tiến hóa đi phần nào.
iPhone 5C với chiếc vỏ nhựa màu mè, thể hiện một sự mềm mỏng và thỏa hiệp trong tư duy thiết kế sản phẩm hà khắc của Apple, hay Ive, từ trước đến nay. Sự hà khắc đã trở thành icon khiến Apple fan chết mê chết mệt.
iPhone 5C Introduction
Ai mà lại cần một chiếc iPhone vỏ nhựa bóng bẩy cơ chứ???
Đối với những Apple fan điển hình như tôi – dùng iPhone từ những ngày đầu và trung thành hết năm này đến năm khác – thì iPhone 5C là một thứ gì đó thật kỳ cục, vô cùng bizarre… Rõ ràng là nó không dành cho tôi.
iPhone 5S mới là dành cho các Apple fan điển hình.
Còn iPhone 5C, là dành cho phân khúc khách hàng mới – những người chuộng sự màu mè hoa mỹ của Nokia hay Samsung. Những người mà trong tiềm thức của họ, thiết kế simplicity là chưa đủ.
Apple từng kiêu hãnh quay lưng lại những người ấy.
Nhưng hiện nay, bằng sự mềm mỏng thỏa hiệp của mình, Apple đã gửi một thông điệp thân thiện hơn đến với người dùng mới.
Chúng tôi giữ nguyên tính simplicity, nhưng không vì vậy mà chiếc iPhone mới bớt thời trang và sôi nổi hơn. Thiên tài Ive của chúng tôi đã làm được điều đấy.
Is that what you want?
***
Nhiều bạn cho rằng giá của chiếc iPhone 5C vẫn quá cao cho một sản phẩm downmarket. Đối với bản contact-free là $549 (16GB) và $649 (32GB), so với iPhone 5S là $649 (16GB), $749 (32GB) và $849 (64GB).
Điều này đúng.
Giá của chiếc iPod Mini thời điểm ra mắt là $249 cho bản 4GB, trong khi Classic là $299 bản 40GB – tức là giá của iPod Mini không rẻ hơn bao nhiêu so với người anh em đẳng cấp của nó.
Nhưng iPod Mini vẫn là một sản phẩm downmarket để khai phá thị trường mới.
iPhone 5C cũng vậy.
Triết lý của Apple đó là không làm ra các sản phẩm rẻ tiền. Sản phẩm có thể rẻ hơn để khuyến khích người dùng, nhưng đẳng cấp phải giữ nguyên, vì vậy giá không thể quá rẻ.
Đối tượng người dùng của iPhone 5C là ai? Về demographic, thực chất họ là những người ngang hàng với người dùng iPhone điển hình, tức là không có vấn đề về khả năng chi trả. Họ chỉ khác, trong tiềm thức, về psychographic mà thôi.
Vì vậy chính sách giá của Apple đã chấp nhận mềm mỏng đi một chút để thu hút nhóm khách hàng này.
Còn bạn vẫn muốn giá rẻ hơn?
Cứ chờ đi, giống như iPod, Apple sẽ dần dần thực hiện các lần brand extension tiếp theo để phủ kín các phân khúc giá! Đó sẽ chỉ là vấn đề của 3 – 5 năm nữa.
Tôi tin là vậy.
Tình hình thực tế?
Việc downmarket là hành động mang tính chiến lược, nhưng kết quả ra sao?
Cho đến thời điểm hiện tại, những con số từ các nhà phân tích cho thấy kết quả sale của iPhone 5C tương đối thảm hại.
Tôi không bất ngờ với kết quả này.
Như đã nói ở trên, iPhone 5C có sứ mệnh chiếm người dùng từ đối thủ, và điều này là vô cùng khó. Cái tiềm thức được khơi gợi đó nó cần thời gian để những người chưa dùng Apple hiện nay lưỡng lự, phân vân, cảm thấy sản phẩm này cuối cùng cũng thuộc về mình, và take action.
iPhone 5C, hay downmarket, là bài toán dài hơn, và sẽ chỉ được nhìn thấy kết quả rõ ràng sau ít nhất 1 năm kể từ thời điểm bán ra chính thức.
Ít nhất thì tôi đã bắt đầu nhìn thấy bạn bè của mình dùng iPhone 5C, những người mà cách đấy mấy tháng vẫn còn chơi với Android…
BGR cũng cho rằng iPhone 5C còn có một sứ mệnh nữa, đó là làm vật hi sinh để đảm bảo doanh số cho iPhone 5S, trong khi chiếm thị phần hệ điều hành của đối thủ. Đọc thêm tại đây, và đây.
For Apple, low cost doesn’t mean cheap.
PS. Ở một mặt trận khác, B2B, Apple vẫn đang chiến đấu quyết liệt…
Recommended reading: http://t.co/2G2qhCSYTE
December 9, 2013 2 Comments